Phẩm-cách của con người được nhận-thức qua hành động của con người. Hành-động ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng. Một lời nói, một ý-nghĩ, một thái-độ cũng đều được gọi là hành-động. Nói theo Phật-học, thì hành-động đây tức là "nghiệp". Hành-động cao đẹp vừa chứng-tỏ một phẩm-cách cao đẹp mà lại vừa un-đúc cho phẩm-cách ấy cao đẹp thêm. Mà khi phẩm-cách đã cao đẹp thêm thì hành-động cũng lại tăng phần thiện-mỹ. Vì thế, do hành-động, một phẩm-cách có thể hạ-liệt thêm lên, hoặc cao-thượng thêm lên. Sự biến đổi của phẩm-cách ấy chính là do ở ý-chí, cơ-năng của mọi hành-động vậy.
Vấn đề tự do ý chí còn là một vấn-đề chưa được giải-quyết, vì là một vấn đề nằm trong phạm vi siêu hình, không phải chỉ nằm trong phạm vi luân lý đạo đức.
Ý-chí là gì?
"Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thị chi vị đại trượng phu".
"Phú quý không làm cho dâm dật, nghèo nàn không làm cho thay đổi, uy vũ không làm cho khuất phục, đó gọi là đại trượng phu." Đại trượng phu ở đây chính là phẩm cách, mà phẩm cách ấy chính là nhờ ở ý chí mạnh mẽ "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Vậy ý chí tức là năng lực ý thức và tự chủ của cá nhân vậy.
Nhưng khi xét về bản-chất của tự thân ý chí, các triết gia không đồng ý với nhau; do đó mà có hai chủ trương: quyết định luận (déterminisme) và tự do luận (libéralisme). Quyết định luận căn cứ trên quan điểm cơ giới (point de vue mécanique), còn tự do luận thì căn cứ trên quan điểm mục đích (point de vue théléologique) của Tự nhiên triết học.
Như Lão-tử nói:
"Thiên địa chi gian, kỳ do thác thược hồ!" hay "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất" và "Phù vật vân vân, các phục quy kỳ căn, quy căn viết tĩnh, thị viết phục mệnh"(Đạo đức kinh, chương 73 và16)
Đó chính là một quan-niệm cơ giới về vũ trụ, Spnoza bảo "Vạn sự đều đã được định trước, con người không thể muốn theo ý mình". Nếu con người không hiểu được tính cách tất-nhiên và cố định ấy của vũ trụ, cứ muốn làm theo ý mình, làm trái định luật tự nhiên, tức là phải gặp tai họa. Trong Đạo đức kinh, chương 16 có câu:
"Bất tri thường, vọng tác, hung"
"Nếu không biết lẽ thường, mà cứ làm theo ý mình, thì ắt gặp phải tai biến".
Démocrite, theo ý của thầy là Leucippe, cho rằng vạn vật trong vũ trụ đều do nguyên tử cấu thành; tâm linh con người cũng chỉ là sự kết hợp của các nguyên tử vật chất ấy, bất quá là tinh tế hơn và có nhiều tính chất lưu động hơn mà thôi. Sự biến dịch của nhân tâm và sự thành hoại của vạn vật, nhất luật đều do sự tập hợp và phân tán của nguyên tử. Sự vận động tự nhiên của nguyên tử không có một mục đích nào hết: cho nên sự thành hoại biến dị của tất cả mọi cá thể đều là ngẫu nhiên, do sự sai dị và tụ tán của phân lượng nguyên tử. Theo đó thì cái nhân nghĩa của Khổng Tử, Nhan Hồi, hay cái bất nghĩa của kẻ đạo chích cũng không khác nhau vì tính chất, mà chỉ khác nhau vì phân lượng phối hợp của nguyên tử không đồng nhau mà thôi!
Sau Démocrite, Aristote chủ-trương ngược hẳn lại; Ông cho rằng trong vũ-trụ, không có vật nào là không có mục đích của nó. Vạn vật đều phát triển, từ tiềm thế (potentialité) đến hiện thế (actualité): trứng tự nhiên cần phát triển để thành gà, tằm tự nhiên phát triển để thành bướm. Con người cũng cần phát triển để thành bậc hoàn nhân.
Cái mà Aristote gọi là energiea (chữ Hy-lạp) chính là ý chí; nhờ ý chí đó mà vạn vật có thể từ tiềm thế trở thành hiện thế. Nhân loại phải nhờ ý chí ấy mà tiến đến chỗ nhân sinh viên mãn.
Hiện-đại, Henri Bergson, trong quyển "Thời-gian và Tự-do Ý-chí" phủ nhận luật nhân-quả trong bản-thân vũ-trụ; cho rằng luật ấy là do con người giả-tạo theo tri-thức suy-luận của mình, và chủ trương rằng bản-thể là luôn luôn sáng-tạo đổi mới, tuyệt-đối tự-do. Hiện-tượng đến sau tuyệt-đối không chịu sự quyết-định của hiện-tượng đến trước. Thế-giới không phải là một guồng máy lớn cứ xoay quanh con trục, mà là một sáng-tạo bất đoạn, không có một yếu-tố nào quyết-định hay ngăn-cản sự sáng-tạo bất đoạn ấy được.
Chúng ta thấy rằng đã công-nhận cơ-giới-tính của vũ-trụ tức là chủ-trương không có tự-do ý-chí. Vũ-trụ, theo tri-thức suy-luận của chúng ta, được cai-quản bởi những định-luật tổng-quát – như luật nhân-quả – chẳng hạn Khoa-học đi tìm những định-luật ấy để lợi-dụng thiên-nhiên, chế-ngự thiên-nhiên. Các định-luật kia phải có tính-cách tất-nhiên, bởi vì không tất-nhiên thì không thể gọi là định-luật được. Mà công-nhận những định-luật ấy tức là đã công-nhận rằng vũ-trụ là một đại cơ-giới: con người là một tiểu cơ-giới trong cái toàn-thể ấy, cũng phải sinh hoạt một cách tất-nhiên, nghĩa là không có ý-chí tự-do.
Nhưng đứng về phương-diện triết-học nhân-sinh, không ai chịu công-nhận như thế. Đặt vấn-đề căn-bản là nhân-loại phải có trách-nhiệm đạo đức, người ta không thể không công-nhận tự-do ý-chí. Có tự-do ý-chí mới có vấn-đề phẩm-cách, mới có vấn-đề chỉ ác tu thiện, và mới có giá-trị nhân-sinh. Triết-gia Kant chia lý-tính làm hai thứ: thuần-túy lý-tính (la raison pure) với thực-tiễn lý-tính (la raison pratique) và công-nhận trong thực-tiễn lý-tính có tự-do ý-chí. Nhưng làm sao để có thể cách-biệt "thuần-túy" và "thực-tiễn" cho được, cho nên trong ấy ta vẫn đọc thấy một thắc-mắc thầm kín không thể giải-tỏa.
Công-nhận tính-cách "tất-nhiên" của vạn-sự tức là chủ-trương rằng tất cả đều đã được quyết-định trước, là phủ-nhận khả-năng sáng-tạo, cải-biến, nói tóm lại, là không thừa nhận tự-do ý-chí. Vậy nếu muốn chủ-trương tự-do ý chí thì phải không công-nhận tính-cách "tất-nhiên" ấy của vạn-sự, nghĩa là không thừa-nhận có những định-luật phổ-biến mà vũ-trụ phải vận-hành theo. Không "tất-nhiên" thì cố-nhiên phải là "ngẫu-nhiên". Mà nếu là ngẫu-nhiên thì vũ-trụ trở thành một khối hỗn-tạp, rối-reng, không có một đường lối vận-hành nào cả. Thế thì tự-do ý-chí sẽ dùng vào việc gì? Nếu không có luật nhân-quả gieo thiện gặt thiện, gieo ác gặt ác, thì tự-do ý-chí cũng sẽ không lợi gì cho nhân-sinh cả, bởi vì hành-động luân-lý cũng như hành-động phi-luân-lý, không đem đến một hậu-quả nào hết.
Vậy đạo Phật đã giải-quyết thế nào về vấn đề tự-do ý-chí?
Đứng về phương-diện vũ-trụ, đạo Phật chủ-trương rằng thế-giới là một sáng-tạo-phẩm cộng-đồng của nghiệp-lực chúng-sinh. Những chúng-sinh nào cùng mang chung một nghiệp-nhân thì cùng sống trong một thế-giới cộng báo, tức là nghiệp-quả chung cho tất cả các chúng-sinh ấy, gọi là cộng-nghiệp. Tự thân của mỗi chúng-sinh cũng là nghiệp-quả, nhưng bất-cọng-nghiệp.
Bản-thân của chúng-sinh và thế-giới trong đó chúng-sinh sống đã là một nghiệp-quả, thì cố-nhiên nghiệp-quả ấy cũng đã là một câu-thúc không nhiều thì ít đối với chúng-sinh ấy. Do nghiệp-nhân quá-khứ mà con người có một ngũ-uẩn-thân, nghĩa là một cá-thể tổng-hợp của ngũ-uẩn: sắc (vật-chất) và thọ, tưởng, hành, thức (tinh- thần). Sắc-uẩn đành rằng phải chịu luật chi-phối của tự-nhiên. Về tâm-thức, khi sinh ra, con người đã mang theo một khuynh-hướng thâm-trầm chấp-ngã, nặng-nề những tính-chất ngã-si ngã-kiến làm nền-tảng cho ngã-ái, ngã-mạn sau nầy. Vì thế, con người khi sinh ra, không phải hoàn-toàn tự-do như Rousseau đã nói, trái lại, đã mang nặng những yếu-tố không tự-do. Tuy-nhiên, theo lối phân-tích Tâm-học của Duy-thức-luận, con người có một hiện-tượng tâm-lý giàu khả-năng tự-do: đó là thức thứ sáu: ý-thức. Ý-thức không bị nghiệp-quả ràng-buộc, trái lại, còn có thể chuyển-di được nghiệp-quả. Thân-thể và vạn sự vạn-vật trong vũ-trụ đều phải vâng theo định-luật thành, trú, hoại, không. Nhân-sinh, trong sự sinh-hoạt, cũng phải bị những định-luậït của tự-nhiên-giới chi-phối, duy chỉ có ý-thức là còn khả-năng được tự-do.
Theo nghiệp-nhân xấu hay tốt mà phạm-vi của sự tự-do ấy rộng hay hẹp. Nghiệp-nhân nặng nề xấu-xa sẽ đưa đến một hoàn-cảnh nhiều nghịch-duyên và một sắc-thân nặng-nề, đần độn: khả-năng ý-thức vì đó mà có rất ít tự-do. Thiếu đi một ít chất cần-thiết trong não cân, mất đi một vài cơ-quan cảm-giác thế là phạm-vi ý-thức bị thu hẹp lại và tự do cũng sẽ giảm bớt theo sự thu hẹp ấy. Dục-vọng càng nặng-nề, ngã-si và ngã-kiến càng kiên-cố, thì năng-lực tự-do ấy càng giảm bớt.
Cố-nhiên những quả-báo của biệt-nghiệp phải chứa nhiều tự-do hơn những quả báo của cọng-nghiệp. Ý-chí tự-do tác-động trên biệt-nghiệp-báo (bản-thân) dễ dàng hơn là trên cọng-nghiệp-báo (thế-giới vũ-trụ). Ở vào địa-vị người, tự-do ý-chí tương đối đã khá rộng-rãi; nhân công-tác chuyển-nghiệp (chuyển ác-nghiệp thành thiện-nghiệp) mà tiến dần đến tự-do tương-đối rộng hơn và thoát-ly cọng-nghiệp bất tự-do.
Vậy trên đường giải-thoát giác-ngộ, càng đi lên thì con người càng thoát-ly được những giai-đoạn cọng-nghiệp ít tự-do và tiến đến những giai-đoạn cọng nghiệp nhiều tự-do. Những định-luật chi-phối tự-nhiên-giới và nhân-sự giới không phải là những định-luật nào khác hơn là những định-luật của thế-giới nghiệp-báo cọng-đồng. Đó cũng là những kết-quả của nghiệp-nhân và có thể thay-đổi được nếu nghiệp-nhân thay-đổi. Hơn nữa, tự-do ý-chí không bắt buộc phải là nghịch lại với những định-luật chi-phối thế-giới, vũ-trụ. Ta có thể ví-dụ ý-chí của mỗi cá-nhân ta như là một chiếc xe hơi và các định-luật kia là những hệ-thống đường sá trong đô-thành. Xe hơi có quyền chọn bất cứ một đường nào để chạy, miễn là phải chạy trên đường. Nhưng "có quyền chọn bất cứ một đường nào để chạy" là gì nếu không phải là tự-do? Vậy hoạt-động theo những định-luật tự-nhiên với một ý-thức quyết-trạch, không hẳn là không có tự-do ý-chí.
Trong nhiều trường-hợp, ý-chí có thể theo hay là không theo những định-luật phổ-biến; và như ta đã thấy, khi đã chuyển-nghiệp để tự tách rời khỏi cọng-nghiệp thiếu tự-do, ý-chí có thể biến-cải được những định-luật ấy và tạo nên những định-luật mới trong nghiệp-quả cọng-biến mới.
Sự khác nhau giữa một định-luật tự-nhiên và một ý-chí là ở chỗ định-luật tự-nhiên ấy tác-động một cách vô tư và máy móc trên toàn thể, còn ý-chí tự-do tác-động một cách có ý-thức và riêng cho từng cá-nhân. Một ý-chí mà tác-động không ý-thức và không có liên-hệ đến bản-thân của cá-nhân thì không thể gọi là một ý-chí tự-do mà chỉ là một sự điên cuồng.
Sống trong một thế-giới cọng-nghiệp, con người không thể thay đổi những định-luật của thế-giới cọng-nghiệp ấy, nhưng con người có quyền chọn lựa những phương-tiện hành-động mà con người có thể có được. Sự chọn lựa ấy chính là yếu-tố tự-do.
Đi sâu hơn nữa, ta thấy rằng thế-giới vũ-trụ mà ta xây-dựng trong trí-thức của ta – xây-dựng bằng kinh-nghiệm và suy-luận – chưa ắt đã giống với thế-giới khách-quan tồn-tại ngoài chúng ta. Có thể nói rằng thế-giới mà ta quan-niệm chỉ nằm gọn trong thế-giới khách-quan thực-tại. Bởi vì thế-giới mà trong đó chúng ta sống có thể là một thế-giới lắm chiều (de plusieurs dimensions) mà trí-năng của ta thì lại chỉ trình-bày có một chiều thôi.
Hình-dung bằng trí-năng tất cả những kinh-nghiệm của mình về các chiều-hướng (dimensions) khác, thì cũng như nhà họa-sĩ trình-bày lại không-gian ba chiều (l’espace à trois dimensions) trong một mặt phẳng hai chiều. Nhà họa-sĩ có thể làm như vậy, nhưng phải hy-sinh đi ít nhiều đặc-tính của sự-vật và đưa vào bức họa một trật-tự mới về tỷ-lệ, cái trật-tự chỉ có thể áp-dụng trong đơn-vị nhân-tạo của hội-họa mà thôi. Những định-luật về viễn-cận ở đây cũng tương-đương như những định-luật của thế-giới bên ngoài mà trí-thức ta quan-niệm. Họa-sĩ ý-thức được rằng mình đang trình-bày không-gian ba chiều trong một mặt phẳng hai chiều, chứ trí-năng chúng ta thì cứ tin rằng đã quan-niệm được thế-giới bên ngoài với tất cả thực-tại của nó. Trí năng của ta tưởng đâu rằng thế-giới của những định-luật mà trí-thức suy-luận xây-dựng nên chính là thế-giới khách-quan thực-tại. Sự áp dụng luận-lý trong tư-tưởng cũng cần-thiết như sự áp-dụng luật viễn-cận trong hội-họa, nhưng chỉ được áp dụng như là một phương-pháp biểu-thị chứ không phải như một tiêu-chuẩn cho thực-tại. Óc suy-luận đã không thể đạt tới bản-thân của thực-tại được chính là do đó. Vậy đem trí suy-luận để tìm-tòi, để mà đi đến"quyết-định-luận" hay "tự-do-luận" đều là việc làm vô bổ. Chỉ có những thực-giác của chúng ta về bản-thể và về thực-tại mới có thể đưa ta đến chỗ nhận-thức chân-chính mà thôi.
Chúng ta có trực-giác ấy khi chúng ta tự cảm thấy có tự-do và tự cảm thấy có trách-nhiệm về hành-động của ta. Ta đang sống với một ý-chí tự-do và nếu thiếu ý-chí tự-do ấy, ta sẽ trở thành một cái máy vô-tri không có ý-thức.
Vậy ta có thể kết-luận:
1. Có tự do ý chí, nhưng tự do ấy không hoàn toàn. Tuy nhiên, trên bước đường tiến bộ đến giải thoát từ giai đoạn cọng nghiệp với chúng sinh tiến đến giai đoạn cọng nghiệp với thánh hiền, tự do ý chí càng lúc càng được mở rộng để đi đến hoàn toàn khi nào con người đã tận diệt được những ác nghiệp và tăng trưởng đến cùng những thiện nghiệp.
2. Tự do ý chí không thể đem ra nghiên cứu như một đối tượng mà chỉ có thể nhận thức được bằng trực giác và kinh nghiệm. Vấn đề tự do ý chí là một vấn đề hoàn toàn chủ quan, không thể giải quyết một cách khách quan được.
3. Những định luật mà ta cho là đang chi phối ta và là trái chống với ý chí của ta có thể là những định luật do chính tri thức của ta tạo nên. Bởi vì ta làm sao có thể đứng ngoài thế giới ta và cá nhân ta để quan sát một cách khách quan cho được? Ta chỉ như một người đứng trên chiếc đò, thấy bờ đi mà không biết rằng chúng ta đang đi. Tri thức suy luận của ta đã sáng tạo ra những "định luật" về thực tại, và quan niệm thực tại qua những định luật ấy, để rồi vọng tưởng. Ta đã đối tượng hóa thực tại một cách sai lầm. Chỉ khi nào ta thể nhập thực tại với một ý thức sáng suốt nghĩa là đạt đến tự do hoàn toàn, ta mới trực nhận được thực tại toàn vẹn.
* Please Don't Spam Here. All the Comments are Reviewed by Admin.