Type Here to Get Search Results !

Bà Chúa Ngọc, Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Bà mẹ xứ sở, Nữ thần Poh Nagar (hay Pô Ino Nogar).

Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Bà mẹ xứ sở hay bà chúa Ngọc, người Chiêm Thành (Chăm) gọi là Nữ thần Poh Nagar (hay Pô Ino Nogar). Chúa Ngọc là tên gọi được người Việt tôn xưng từ một vị nữ thần của người Chăm là thần mẹ xứ sở - Mẫu đất - Po yan Ynư Nagar.

Vùng đất Quảng Trị nói riêng hay miền Trung ở mỗi làng quê đều có miếu thờ nữ thần với tên gọi là miếu Bà Chúa Ngọc, hay là miếu thờ bà Thiên Y Ana Ngọc Diễn phi. Những ngôi miếu này được người Việt dựng bên trên các phế tích đền tháp Chăm, những dấu tích liên quan đến văn hóa Chăm hoặc những khu đất được xem là nơi linh thiêng của làng.

Theo tiếng Chăm, Pô Yang Inư Nagar Kaut Hara có nghiã là Thiên Ya Na Thánh Mẫu là Nữ thần Mẹ Xứ Sở của bộ tộc Kaut. Pô là từ danh xưng dùng cho thần thánh thiêng liêng, được dịch ra từ Thiên. Yang có nghĩa là Trời, Thánh Thần (nhiều dân tộc Tây Nguyên cũng dùng âm tiếng với ý nghĩa như vậy hoặc đọc trại là Giàng, theo người Êđê ở vùng Buôn Ma Thuột, ĐakLak và Khánh Hòa. Inư là mẹ đã mất, Nagar là xứ sở, đất nước) Inư Nagar đã được phiên âm Việt là YaNa. Kaut Hara là thị tộc Kaut.

Tuy chỉ là một vị thần theo truyền thuyết, nhưng đã được cư dân Việt và Chăm thờ phụng rất tôn nghiêm, và đã được nhà Nguyễn - Vua Gia Long, xếp vào bậc “Hồng nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng Thần”.

00 | Ngày truyền thống

Theo truyền thống cũ, đá ở phía trước của cụm tháp Bà (tức là tòa tháp ở Nha Trang Po Nagar), giữa các cửa sông Cu, như những viên đá đã bị đánh chìm từ các hạm đội cuối cùng. Khối lượng giao dịch là chiến lược Phan Thanh Giản ký bản sao của tất cả, khắc vào bia đá, được xây dựng sau khi tòa tháp ở Nha Trang Ba Tự Đức năm thứ 9 (1856).

Cho đến nay, ngày 21-ngày 23 tháng ba vào dịp lễ hội Đền âm lịch hàng năm được chính thức tổ chức với sự tham gia của đại đa số người dân bản địa với bạn bè bốn khách. Đây là một cơ hội cho du khách để tỏ lòng kính trọng của họ, về nguồn gốc dân tộc, cũng như khám phá những vùng văn hóa độc đáo.

01 | Truyền thuyết về Bà Thiên Y A NA

Văn bia viết về Bà Thiên Y A NA, tại Tháp Poh Nagar, Nha Trang, do Tiến sĩ, Hiệp biện Đại học sĩ, Lễ bộ Thượng thư Phan Thanh Giản soạn ngày 05 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) - bản dịch của Quách Tấn - ông bà Lê Vinh tạc năm 1970, tóm tắt như sau:

Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa. Năm ấy, đến độ dưa chín, sáng nào ra ruộng thăm, ông bà cũng thấy dưa bị hái trộm. Lạ một điều, chỉ có một quả dưa lớn nhất đẹp nhất là bị hái, nhưng kẻ trộm không ăn mà cũng chẳng mang đi. Quả dưa còn nằm ở một chỗ trống, nhưng bưng lên đã thấy bị nẫu.

Thấy sự lạ, hai ông bà bèn bàn nhau cất công để ý rình. Rồi một đêm trăng sáng, họ đến nấp vào một bụi cây cạnh ruộng. Gần đến nửa đêm, bỗng đâu có cô gái trạc độ mười ba mười bốn tuổi tự nhiên hiện ra ở giữa ruộng dưa. Cô gái rón rén đi, nhìn ngắm từng quả dưa một, rồi sau đó, hình như đã chọn được quả ưng ý nhất thì cúi xuống hái lên. Cô ngắm đi ngắm lại mãi, rồi tìm ra một chỗ trống, tung quả dưa từ tay bên này sang tay bên kia, và cứ như thế, một lúc lâu, sau lại ôm lấy quả dưa mà ngắm nghía mãi không biết chán...

Đúng lúc ấy, từ chỗ nấp, hai ông bà chạy ùa cả ra, nắm ngay lấy tay cô gái. Còn cô gái, tuy không chạy trốn kịp nhưng cũng chẳng tỏ ra có chút gì sợ hãi. Cô trả cho họ quả dưa, và khi được hỏi thì cô lễ phép trả lời: Cô là con nhà nghèo không còn cả cha lẫn mẹ, nhà cô ở cách đây rất xa và cô cũng chẳng nhớ được quê mình ở đâu nữa...

Thấy cô gái dễ thương, lại nghĩ mình không có con cái, nên ông bà bàn nhau nhận cô về làm con nuôi, rồi cả hai cùng nói với cô gái...

Còn cô gái, thấy cử chỉ, lời lẽ của hai ông bà đều chân thành thì cô im lặng lắng nghe và suy nghĩ, rồi sau đó nhận lời.

Cô theo họ về nhà. Sáng hôm sau, hai ông bà sửa lễ gia tiên, rồi hai bên chính thức nhận nhau là bố mẹ và con cái. Từ đấy trong ngôi nhà của họ, không khí vui vẻ đầm ấm hẳn lên. Hai ông bà hết lòng yêu thương chăm sóc cô, còn cô thì cũng rất mực yêu thương kính trọng bố mẹ.

Một hôm trời đổ cơn mưa lớn, nước lũ ở thượng nguồn tràn về mênh mang, khiến mọi người đều ở trong nhà không ai đi làm được cả. Bố mẹ cô, lẽ dĩ nhiên là rất lo lắng, mong sao cho nước mau cạn để cây cối khỏi bị chết úng, thì cô, do tính tình còn trẻ dại, lại thích nô đùa. Rồi cô xuống bên mé nước cậy đá lên, xếp chúng thành một hòn núi giả, lại đi tìm những cành lá gẫy cắm vào xung quanh, để chơi...

Thấy vậy, ông bà bực quá, nghĩ rằng con cái chẳng hiểu được lòng bố mẹ, bèn lên tiếng trách cứ rồi la mắng. Nào ngờ, cô gái thấy tủi thân quá, bèn lủi ra đầu hồi nhà, đứng khóc một mình. Một lúc lâu sau, nhân lúc bố mẹ không ai để ý, cô lại lén ra khỏi nhà, rồi men theo những dải đất cao, đi ra phía bờ biển. Cũng lúc ấy, dập dềnh bên mé nước có một cây gỗ kỳ nam, không biết trôi từ đâu đến. Cô gái còn khóc hồi nữa, rồi nhìn quanh nhìn quẩn, thấy mình hoàn toàn lẻ loi, cô đơn, cô bèn nhảy luôn lên cây gỗ, và một điều kỳ lạ xảy ra: Cô gái đã nhập thân vào cây gỗ. Cây gỗ dập dềnh ở đấy một lúc nữa, như có điều gì còn ghi nhớ và lưu luyến, rồi sau đó, theo sóng biển, trôi mãi lên phương Bắc...

Ông bà bố mẹ nuôi cô gái đang bận việc chẻ củi và may vá trong nhà, tưởng con khóc rồi chơi ở ngoài đầu hồi, nên cũng không để ý. Đến mãi sau, khi lên tiếng gọi thì chẳng thấy con đâu! Hai ông bà bèn nháo nhào đi tìm nhưng khắp chốn cùng nơi, cũng vẫn tuyệt âm vô tín. Nước lụt mênh mang như thế, lại đang cuộn chảy mãi ra biển, họ cho là con gái xảy chân đã trôi ra biển mất rồi. Thế là ông bà gào thét, khóc than thảm thiết, sau đó làm lễ cúng chay cho con, và từ đấy trở đi, sống âm thầm, rầu rĩ cho đến cuối đời...

Còn cây gỗ kỳ nam, sau một hồi dập dềnh rồi trôi lên phương Bắc, và cứ thế trôi mãi... trôi mãi... Đến khi sóng lặng gió yên thì đã trôi được cả ngàn dặm đường và dạt vào bờ...

Một buổi sáng dân địa phương nọ ra bờ biển, vô cùng ngạc nhiên thấy có cây gỗ lạ rất đẹp trôi từ đâu đến. Họ bảo nhau mang thừng chão ra buộc vào rồi cùng kéo lên bờ, nhưng hàng trăm người xúm vào mà cây vẫn không nhúc nhích. Họ bèn đóng cọc ghim lại để tìm kế sách khác, và cũng từ đấy, dường như ngay tức khắc, tiếng đồn về cây gỗ kỳ lạ đã lan ra khắp cả vùng.

Hoàng tử ở phương Bắc bấy giờ vào tuổi kén vợ, đang đi chu du khắp chốn cùng nơi để tìm cho ra một người ưng ý. Khi đến vùng này, nghe chuyện cây gỗ kỳ lạ, chàng cũng tò mò tìm đến. Thấy cây gỗ đẹp thì có đẹp nhưng cũng không lớn lắm mà sao cả trăm người kéo không được thì chàng lấy làm lạ lắm. Cũng vẫn là tò mò, chàng xắn tay áo lên, bảo mọi người cho mình kéo thử một cái xem sao.

Chiều ý Hoàng tử, mọi người lui cả rạ Nhưng thật vô cùng bất ngờ, khi hoàng tử vừa cầm thừng co tay lại thì cây gỗ cũng lập tức chuyển động, rồi dần dần, theo sức kéo mà tiến vào bờ. Đến khi chạm đất, Hoàng tử kéo mạnh một cái nữa thì cây hoàn toàn đã nằm trên bãi biển.

Mọi người vô cùng phấn khởi, vỗ tay reo hò không ngớt. Xong xuôi, sau khi hỏi ý kiến dân làng, Hoàng tử cho quân lính đem cây gỗ về Kinh đô.

Về phía dân làng, tuy cũng có người còn tiếc rẻ, nhưng đa phần cho rằng, đưa cây gỗ về kinh là hợp lý hơn cả vì như vậy tất cả bàn dân thiên hạ sẽ đều được chiêm ngưỡng. Còn về phía Hoàng tử thì cũng chẳng có vui mừng nào hơn, chàng cho là có duyên cớ, bèn không tiếp tục đi tìm vợ nữa, mà cùng quân lính trở về kinh, cùng với cây gỗ.

Khỏi phải nói, khi về đến Kinh đô thì mọi người, mọi nơi nghe tiếng, nao nức tìm đến xem đông như thế nào. Nhưng rồi sự kiện ấy cũng mau chóng qua đi bởi lẽ mọi người nhìn mãi rồi cũng chán, vì cây đẹp thì có đẹp nhưng chẳng thấy có biểu hiện gì là lạ lùng cả. Mà dân chúng cần là cần sự lạ lùng, xưa nay chưa từng có, chứ không phải là một cái cây đẹp.

Chỉ riêng có Hoàng tử, do chính tay mình đã chứng kiến và thực hiện được một điều kỳ diệu, nên còn giữ mãi trong lòng sự vui mừng và niềm mong đợị Khi mọi người đã xem chán xem chê, đến mức không còn ai thiết xem nữa, thì Hoàng tử mới sai quân lính đem cây về trước Đông cung để hàng ngày được nhìn ngắm và gần gũi với cây.

Cây quả là đã có tình ý với Hoàng tử thật. Từ đó trở đi, mỗi đêm trăng sáng, Hoàng tử bỗng thấy trong thân gỗ bước ra một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, và cùng lúc, là mùi hương thơm ngào ngạt tỏa ra theo mỗi bước chân của nàng.

Mê mẩn trước người đẹp, Hoàng tử vội vàng chạy tới, nhưng lần nào cũng vậy, hễ cứ giáp mặt, là người con gái lại biến ngay vào trong thân gỗ.

Sau vài lần như thế, Hoàng tử đã nghĩ ra được một cách, cũng khá đơn giản chứ chẳng có gì ghê gớm lắm. Chàng cho mấy người lính hầu đứng nấp ở xung quanh, còn tự mình cũng nấp saÜn ở gần đấỵ Khi cô gái vừa xuất hiện thì Hoàng tử đã bước ra nắm chặt lấy tay nàng, và mấy người lính cũng lập tức khiêng cây gỗ đem dấu biến đị Hoàng tử bảo cô gái hãy vui lòng vì chàng mà ở lạị Cô gái e lệ cúi đầu. Thế rồi, ngay lúc đó chàng dẫn nàng đến trình với đức vua cha và hoàng hậu, kể lại hết đầu đuôi ngọn ngành, và xin cha mẹ hãy tác thành cho họ.

Nhà vua lắng nghe, rồi nói: "Được. Để xem", xong cho gọi thị nữ đưa nàng về phòng riêng, còn Hoàng tử thì trở về Đông cung.

Sáng hôm sau thiết triều, nhà vua cho triệu quan Thái bốc lại để bói xem điều lành điều gở thế nào. Sau khi nghe tấu trình là quẻ đại phúc, nhà vua cả mừng rồi ngay sau đó, cho cử đại lễ để hoàng tử sánh duyên cùng cô gái.

Từ đó, cuộc sum vầy của đôi trai gái diễn ra thật vô cùng êm ả, hạnh phúc. Ba năm sau, họ sinh được một gái và một trai.

Tưởng rằng cuộc tình duyên ấy sẽ mặn nồng mãi mãi đến lúc đầu bạc răng long. Nào ngờ Hoàng tử cũng là kẻ bạc tình, chỉ chung thủy được có mấy năm đầụ Khi vợ đã có con thì chàng ta đâm ra hay chơi bời chứ chẳng quan tâm được như trước. Nay rượu, mai cờ bạc, rồi đi dong duổi khắp nơi, không chú ý gì đến việc dạy dỗ con cái. Nàng đã nhiều lần khuyên can nhưng chàng vẫn chứng nào tật ấy, làm nàng rất chán nản. Vì vậy, ở trong hoàng cung, sống giữa nhung lụa, kẻ hầu người hạ không thiếu, mà nàng cảm thấy bơ vơ, rồi buồn tủi xót xa, chỉ muốn tìm cách bỏ đi, không chút luyến tiếc. Bởi vì con người ta vốn là vậy, nên dẫu là thần thánh, thì khi tình yêu đã hết, tất cả sẽ chỉ là vô nghĩa.

Thế rồi một hôm, nhân khi Hoàng tử bỏ đi chơi lâu ngày, nàng tìm thấy cây kỳ nam mà khi trước bọn lính đã đem dấu biệt. Nàng gọi hai con đến rồi đọc một câu thần chú, thế là cả ba mẹ con cùng nhập vào cây kỳ nam. Cây kỳ nam tự chuyển động rời khỏi hoàng cung rồi lăn xuống sông. Từ sông, kỳ nam dòng nước trôi ra biển. Biển lúc ấy bỗng nhiên nổi luồng gió trái. Và theo chiều gió, cây kỳ nam trôi mãi, trôi mãi... Cuối cùng trở lại biển phương Nam.

Đến đúng trước cù lao Huân thì gió lặng và cây kỳ nam dừng lại. Cây trôi vào sát mép nước. Từ thân cây, cả ba mẹ con bỗng chốc hiện ra, bước lên bờ, rồi trở về nhà cũ. Cả hai ông bà cha mẹ nuôi lúc ấy đều đã mất. Nhà vắng vẻ tiêu điều. Ba mẹ con bắt tay ngay vào việc dọn dẹp sửa sang cửa nhà, lập bàn thờ cha mẹ, ông bà tổ tiên, rồi cùng làm ăn sinh sống với dân làng. Từ đấy trở đi, quê hương, vùng cù lao Huân mỗi ngày một thêm ấm no, trù phú. Thế rồi đến một hôm, giữa lúc trời quang mây tạnh, trước sự chứng kiến và ngạc nhiên của mọi người, cả ba mẹ con cùng bay vút lên trời...

Ở phương Bắc, Hoàng tử đi chơi về thấy vợ con mất tích. Tìm cây kỳ nam ngày trước thì cũng chẳng thấy đâu. Chàng hối hận vô cùng, lòng tự nhủ lòng sẽ tìm ra bằng được ba mẹ con, dẫu có phải đi xuống tận địa ngục.

Khi xưa, lúc ở bờ biển chàng có nghe dân chúng nói cây gỗ này trôi từ biển phương Nam lạị Thế là Hoàng tử vào từ biệt vua cha và hoàng hậu, rồi cùng một số gia nhân, binh lính và thủy thủ xuống thuyền, dong buồm vượt biển hướng về phương Nam.

Khi thuyền vừa đúng đến cửa Đại An thì bỗng đâu một trận cuồng phong dữ dội nổi lên. Thuyền đắm, cả Hoàng tử cùng gia nhân thủy thủ đều chìm sâu xuống đáy nước. Nhưng khi cơn bão tan thì tự nhiên biển ở chỗ ấy cũng nổi lên một mô đá nhỏ, vượt cao khỏi mặt nước. Trên mặt mô đá có những hình thù ngoằn ngoèo tựa như những hàng chữ nổi. Từ bao đời nay, đã có nhiều người hay chữ và kiến thức uyên bác đi thuyền tới đó, nhưng chưa ai đọc được đấy là những chữ gì. Và có lẽ như thế nên có thể cho rằng, những điều bí mật của thiên cơ, chắc còn lâu người ở dưới trần gian mới có thể hiểu thấu được hết.

Ba mẹ con nàng tiên đã về trời, nhưng từ đó đến nay vẫn thường hiển linh ở các nơi gần xa quanh vùng cửa Đại An, vùng cù lao Huân, cù lao Yến. Vì vậy dân đi biển, đi đánh cá, đi tìm tổ yến vẫn thường bày lễ vật, thắp hương rồi hướng mặt lên trời cao cầu xin sự che chở, phù hộ độ trì của nàng tiên, mà từ đó trở đi được kính cẩn tôn xưng là bà chúa Ngọc.

Bà chúa Ngọc còn được gọi là bà chúa tiên hay Thánh mẫu Thiên Ya na, theo cách gọi của người Chăm pa, một dân tộc đã định cư lâu dài ở vùng đất này. Từ Huế đến Nha Trang ở đâu cũng có điện thờ bà chúa Ngọc. Triều Nguyễn có sắc thượng phong cho bà là "Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần".

02 | Truyền thuyết của người Chămpa

Theo truyền thuyết của người Chămpa, Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa Bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió hương liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước Bà.

Khi Bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân Bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…

Nhiều phép thuật, Bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của Bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng Bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép:

  1. Nữ thần Xứ Trầm hương: Pô Nagar Galâu.
  2. Nữ thần vùng Phan Rang: Pô Tdara Nai Anaith.
  3. Nữ thần vùng Phan Thiết: Pô Bia Tikuk.
  4. Sự tích Nữ thần Poh Nagar và sự tích Bà Thiên Y A NA thật khác hẳn nhau.
  5. Sụ tích Nữ thần Poh Nagar của người Chiêm Thành phản ánh chế độ mẫu hệ của người Chăm ngày trước.

03 | Hình tượng Poh Nagar

Tượng Bà Thiên Y A Na, tượng chính được thờ ở khu Tháp là tượng nữ thần bằng đá xanh nguyên khối thể hiện Mẹ Xứ Sở ngồi xếp bằng trên đài sen, tượng này là một kiệt tác nghệ thuật điêu khắc của người Chămpa xưa, rực rỡ trong quá khứ, vào thế kỷ thứ XI.

Toàn bộ tượng và bệ thờ cao 2,60m, đặt giữa lòng ngôi tháp chính cao 22,40m, nếu nhìn chính diện, tượng có đến 10 cánh tay, gồm 2 cánh chính với 8 cánh phụ ở đằng sau phù điêu hình lá bồ đề gắn liền với tượng. Đây là sự biểu hiện tính toàn năng.

Hai cánh tay chính đặt trên đầu gối, bàn tay trái mở ra với ý nghĩa ban phát, bàn tay phải dựng đứng, lòng bàn tay ngửa ra trước, trong tư thế trấn an. Ý nghĩa chung là đem lại sự bình an và ban hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Tám cánh tay phụ gồm có mỗi tay cầm một vật phụ khác nhau như: đoản kiếm, mũi tên, vòng mặt trời Sakra, mũi lao, chuông nhỏ, lưỡi giáo Ankura, tù và bằng vỏ ốc, cách cung. Các cánh tay này tỏa ra hình rẻ quạt, rất sinh động. Tất cả những vật này tượng trưng cho quyền uy và trí tuệ của Nữ thần.

Pho tượng đặt trên một Yôni lớn, mỗi cạnh 150cm, gồm nhiều lớp đá chồng khít lên nhau như được đẽo gọt từ nguyên khối. Toàn thân tượng cao 154cm, ngực trần, hai bầu vú căng tròn, bụng có nhiều nếp nhăn, chứng tỏ đã trải qua nhiều kỳ sinh nở, bên dưới mặc một chiếc xà rông. Toàn bộ khối tượng với đường nét, tinh tế, uyển chuyển, thanh thoát, đầy sinh lực, gây cho người nhìn một cảm giác gần gũi mà vẫn giữ được vẻ tôn nghiêm.

04 | Kiến trúc Tháp bà

Kiến trúc của Tháp Bà có nhiều thay đổi so với thời gian gần đây đã hoàn thành nhưng tổng thể vẫn còn bao gồm 3 phần chính:

  • Tháp cổng thấp tầng có bậc đá dẫn lên, nhưng cho đến nay đã không còn nguyên vẹn.
  • Tầng giữa được gọi là mandapa (tức là nhà khách, nhà tĩnh tâm) cho khách hành hương để nghỉ ngơi, chuẩn bị quà tặng. Mandapa dài 20m, 15m rộng, bao gồm bốn cột hình bát giác (trong đó có 10 lớn và 12 cột cột nhỏ). Trên cơ thể của các cột lớn của lỗ mộng, khắc vào trục, tuôn ra đối xứng với phía trên cùng của cột nhỏ.
  • Tầng trên cùng là nơi tháp tọa lạc. Tháp được xây dựng theo phong Chàm, gạch mạch rất chặt chẽ, chất kết dính vô hình. Các chính khối tháp nhà thờ trước khá lớn và cao khoảng 23 mét, tháp Ponagar.

Tháp có 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa ra vào, thần tượng và hình thành đá thú vị. Trên đỉnh tháp có tượng thần Shiva cưỡi Nandin bò, là linh vật và con thiên nga, dê, voi vv...

05 | Lễ hội Am Chúa

Am Chúa là một di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Trầm Hương (Khánh Hòa), gắn liền với tục thờ Thánh Mẫu Thiên Y. Cùng với truyền thuyết về Thiên Y Thánh Mẫu, di tích Am Chúa đã thể hiện rõ nét sự giao lưu văn hoá Việt - Chăm. Với nhiều giá trị văn hoá và lịch sử cách mạng, năm 1999 Am Chúa đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Lễ hội Am Chúa được tổ chức từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Am Chúa, núi Đại An, thôn Đại Điền Trung 1, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Đây là dịp sinh hoạt văn hóa tâm linh, để người dân Khánh Hòa nói riêng, khách thập phương cả nước nói chung thể hiện tấm lòng "Uống nước nhớ nguồn". Nhớ ơn Bà Mẹ Xứ Sở đã dạy cho dân Khánh Hòa biết cày cấy, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải…

Đặc biệt, Tổ Khai sơn Am Chúa (Diên Khánh) là Thiền sư Linh Phù – Tế Cảm, tự Thiện Khoáng, thuộc thiền phái Lâm Tế đời thứ 36, đệ tử của Tổ Thiệt Vinh – Bửu Hạnh khai sơn Sắc tứ Viên Tịnh đời thứ 35 dòng thiền Lâm Tế khai sơn Tổ đình Vạn Thiện ở núi Phụng Thuỳ Sơn (Diên Khánh).

Theo Chánh pháp nhãn tạng hiện đang thờ tại bàn Tổ chùa Tổ Vạn Thiện. Căn cứ vào bia tháp và Tháp Tổ tại khu vườn tháp chùa Tổ Vạn Thiện (Diên Khánh) Thiền sư Linh Phù là vị Tổ khai sáng Am chúa tại núi Đại An, Đại Điền. vào khoảng đời Vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786).

Tại Nha Trang có tháp lớn cao sáu trượng để thờ bà chúa Ngọc. Lại có cả những tháp nhỏ xung quanh để thờ Hoàng tử, hai người con và hai ông bà bố mẹ nuôi. Bia đặt trong tháp lớn do chính tay quan đại thần Phan Thanh Giản thời Tự Đức soạn.

Trước kia, hàng năm triều Nguyễn đều ủy thác cho bộ Lễ về đây làm lễ quốc tế.

06 | Lễ hội Tháp Bà

Lễ hội Tháp Bà Poh Nagar tại Nha Trang diễn ra từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội này đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng là một trong 16 lễ hội quốc gia vào năm 2001. Những năm gần đây, Lễ hội Tháp Bà được tỉnh Khánh Hòa giao cho Sở Văn hóa Thông tin tổ chức.

Hiện nay, dân chúng Khánh Hoà, Nha Trang thờ kính Bà Thiên Y A Na, Bà Mẹ Xứ sở tại Tháp Bà Poh Nagar, và thường xuyên đi lễ Bà để cầu nguyện cho quốc thái, dân an, gia đình an lạc. Tháp Bà Poh Nagar không chí là nơi thờ phụng tôn nghiêm mà còn là địa chỉ du lịch văn hoá tâm linh đặc sắc, du khách trong nước hay nước ngoài có dịp đặt chân đến thành phố Nha Trang thơ mộng, vừa được Chính phủ công nhận Thành phố Đô thị loại 1, không thể không đến viếng Tháp Bà và cầu tài, cầu lộc, cầu gia đạo bình an.

Đến nay, ở Khánh Hoà vẫn lưu truyền câu nói: “Am Chúa hiển nhân, Tháp Bà hiển thánh” như một lời khẳng định về sự nối liền giữa di tích Am Chúa với Tháp Bà Ponagar.

07 | Dấu tích những ngôi Tháp, nền văn hoá Chămpa

Ngày xưa, ở khu vực Tháp Bà, có một số tháp đã được xây dựng trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13. Một số công trình đã bị đổ nát, nay chỉ còn lại 4 tháp, trong đó tháp lớn nhất là Tháp Pho Nagar, thờ Mẹ Xứ Sở của người Chămpa, là người đã dạy dân Chămpa trồng lúa và các thứ hoa màu. Người Việt ở Nam Trung bộ còn gọi Nữ thần Thiên Y A NA là Bà Chúa Ngọc.

Tháp Po Nagar hay Tháp Bà là ngôi tháp nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại Nha Trang, cách trung tâm thành phố khoảng 2 km về phía bắc, thuộc phường Vĩnh Phước. Tên gọi "Tháp Po Nagar" được dùng để chỉ chung cả công trình kiến trúc này, nhưng thực ra nó là tên của ngọn tháp lớn nhất cao khoảng 23m.

Ngôi tháp này được xây dựng trong thời kỳ đạo Hindu (Ấn Độ giáo) đang cường thịnh khi Chăm pa trong giai đoạn có tên gọi là Hoàn Vương Quốc, vì thế tượng Nữ thần có hình dạng của Umar, vợ của Shiva.

Ngọn tháp thứ hai ở chính giữa thờ Thần Cricamblu. Tháp xây từ thế kỷ thứ VII và trong tháp có tượng bằng vàng khối. Vào cuối thế kỷ thứ VIII, người Mã Lai xâm nhập xứ Kaut Hara, cướp mất tượng vàng và phá huỷ ngọn tháp. Vua Satyavarman xây tháp lại và tạc tượng đá thay tượng vàng. Đây chính là Tháp thờ Thái Tử Bắc Hải chồng bà Thiên Y A Na.

Ngọn tháp thứ ba ở phía Nam, đứng ngay hàng cùng hai ngọn trước, thờ thần Linga, biểu hiện của thần Sandhaka. Đó là Tháp thờ Ông Tiều, nghĩa phụ của Bà Thiên Y.

Ngọn tháp thứ tư đứng phía sau tháp thờ Bà Thiên Y. Trong tháp không có tượng, mà chỉ có đế thờ (có lẽ bị thất lạc lúc Mã Lai vào cướp phá). Tháp này thờ thần Ganeca. Đó là đền thờ Công chúa Quý.

Còn hai tháp nửa, cũng ở sau lưng dãy tháp trước. Đó là tháp thờ Bà Tiều nghĩa mẫu của Bà Thiên Y và Hoàng tử Trí. Tháp đã bị hư nát, chỉ còn nền…Cho nên Bà Tiều đưa về thờ chung cùng Ông Tiều ở tháp thứ ba. Hoàng tử thờ chung với Công chúa ở tháp thứ tư.

Phía trước tháp, dưới chân đồi lại có mấy hàng cột cao lớn bằng gạch. Truyền rằng đó là những cột chống vũ đài. Mỗi khi có lễ người ta dùng ván gác lên trên cột thành một sàn gỗ rộng. Vũ nữ và diễn viên ca múa trên sàn gỗ. Thần trong tháp trông ra, nhân dân đứng dưới nhìn lên.

Hàng năm, vào đêm giao thừa, một không khí kỳ thú lung linh ở khu vực Tháp Bà xuất hiện. Khi trời đất bước vào Xuân, vạn vật thay đổi chuyển vần, tiết trời đang se se lạnh, tự dưng ấm lại. Người ta cảm nhận được một mùi hương thơm phảng phất. Đây là hương kỳ nam, hương trầm từ rừng sâu thoảng đến quyện vào mùi thơm của nhang và hoa từ nhà dân chúng, và từ các chùa chung quanh bay ra, tạo thành một không gian có mùi thơm huyền bí.

[full-post]

Đăng nhận xét

0 Nhận xét
Spam, Comment bao gồm link quảng cáo và thiếu văn hóa sẽ bị xóa bởi người kiểm duyệt.
* Please Don't Spam Here. All the Comments are Reviewed by Admin.