Type Here to Get Search Results !

Những số liệu kinh tế phía sau sự hào nhoáng của "Giấc mơ Mỹ"

Tỷ lệ thất nghiệp cao vì Covid-19, bất bình đẳng thu nhập ngày càng lớn trong khi chi phí sinh hoạt đắt đỏ là những gì người Mỹ đang trải qua.


Trong dịp kỷ niệm Quốc khánh (4/7) lần này, những cuộc biểu tình trên toàn quốc và khủng hoảng Covid-19 đã buộc người Mỹ nhìn vào bất bình đẳng thu nhập đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng của nền kinh tế lớn nhất thế giới. Sự mong manh của kinh tế Mỹ rất rõ ràng. Theo một báo cáo của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), gần 40% người Mỹ không có đủ 400 USD dự phòng cho chi tiêu khẩn cấp. Nợ hộ gia đình đang tăng ở mức báo động.

Gần một phần năm hộ gia đình Mỹ có tài sản ròng (tài sản trừ đi các khoản nợ) bằng 0 hoặc âm, theo một nghiên cứu năm 2017 của Viện nghiên cứu Chính sách. Đến nay, cũng chẳng có lý do gì để nghĩ rằng tình hình này đã cải thiện đáng kể.

Sự bất bình đẳng thu nhập này hiện tại rất lớn. Trung tâm nghiên cứu Pew cho biết khoảng 50% người có thu nhập thấp nhất Mỹ chỉ sở hữu 1% tài sản của cả nước. Trong khi đó, top 10% thu nhập cao nhất sở hữu 70% tài sản. Tỷ lệ sở hữu tài sản của các gia đình trung lưu đã giảm gần nửa trong 4 thập kỷ qua, xuống còn 17% cả nước. Một phần tư số trẻ sinh ra trong gia đình có mức sống dưới mức nghèo khổ.

Gần nửa lực lượng lao động Mỹ hiện làm các công việc thu nhập thấp với lương trung bình hàng năm dưới 20.000 USD. Gần 70% người Mỹ chỉ có thu nhập đủ sống qua ngày.

Trong khi đó, chi phí nhà ở, y tế và giáo dục đã tăng rất nhanh trong 20 năm qua. Việc tăng lương cũng khó bù lại được các khoản chi này.

CNN cho rằng sự bất bình đẳng thu nhập này chỉ ra mặt trái của Giấc mơ Mỹ. Báo cáo Global Social Mobility (đánh giá khả năng thế hệ sau có cuộc sống tốt hơn cha mẹ) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm nay xếp hạng 82 quốc gia theo 5 tiêu chí: Giáo dục, y tế, tiếp cận công nghệ, bảo vệ xã hội và điều kiện làm việc. Trong đó, Mỹ xếp thứ 27, sau Lithuania. Đan Mạch đứng thứ nhất.

Điều gì đã xảy ra với mảnh đất nhiều cơ hội này?


Hệ thống y tế của Mỹ gắn chặt với việc làm. Hệ thống giáo dục thì cực kỳ đắt đỏ. Và Mỹ cũng cho phép tồn tại tình trạng lao động không có hợp đồng hay quyền lợi nào.

Sự mong manh của Mỹ càng được phơi bày vì Covid-19. 85% người Mỹ làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ - đối tượng đặc biệt chịu thiệt hại khi kinh tế đi xuống. Hơn 40 triệu người Mỹ đã phải nhận trợ cấp thất nghiệp kể từ giữa tháng 3. Tỷ lệ thất nghiệp cũng lên tới 11,1%.

Cuộc biểu tình Black Lives Matter sau cái chết của một người da màu cũng cho thấy khía cạnh sắc tộc của sự bất bình đẳng thu nhập. Nhiều nghiên cứu chỉ ra thu nhập của các hộ gia đình da trắng vượt xa người da đen và người Mỹ gốc Á.

John Hope Bryant – nhà sáng lập kiêm CEO tổ chức phi lợi nhuận Operation Hope cho rằng một trong những giải pháp ở đây là Hoàn thuế thu nhập do lao động (earned-income tax credit).
"Bạn làm việc chăm chỉ, đúng luật và làm những điều đúng đắn, thu nhập hàng năm của bạn sẽ tăng 20%. Người nghèo sẽ thành tầng lớp lao động, tầng lớp lao động sẽ thành lao động trung lưu, và người trung lưu sẽ là trung lưu thực sự", ông nói.
Một giải pháp khác là hoạt động từ thiện của các doanh nghiệp, giúp bù lại khoảng trống của giới chức. Những công ty như Admiral Capital Group thường trích khoảng 10% lợi nhuận cho cộng đồng địa phương, chủ yếu đổ vào giáo dục.

Dĩ nhiên, thị trường không thể tự giải quyết những vấn đề nền tảng này. "Trong một cuộc khủng hoảng, chúng ta cần chính phủ", Joseph Stiglitz – nhà kinh tế học từng giành giải Nobel cho biết, "Thị trường không thể đảm đương việc này được. Họ không thể sản xuất khẩu trang, kit xét nghiệm và thiết bị bảo hộ chúng ta cần. Tuy nhiên, việc giảm vai trò của chính phủ suốt 40 năm qua cũng đồng nghĩa chúng ta có sự chuẩn bị không tốt".

Giới phân tích cho rằng đã đến lúc Mỹ phải hành động, và thật nhanh. Covid-19 đang ngày càng tác động mạnh đến nền kinh tế. Sự nguy hiểm của bất kỳ cuộc khủng hoảng nào là các doanh nghiệp học được cách làm nhiều hơn với tài nguyên ít hơn. Từ tháng 3, ứng dụng công nghệ và đột phá trong nhiều lĩnh vực đã được áp dụng. Và tự động hóa có lẽ là rủi ro lớn hơn bao giờ hết với lao động thu nhập thấp và trung bình.

Giấc mơ Mỹ chỉ gói gọn trong câu nói: Làm việc chăm chỉ và giấc mơ sẽ thành hiện thực. Tuy nhiên, công thức này đang dần đi chệch hướng. Khi nước Mỹ trải qua khủng hoảng, người dân cần thức tỉnh, nhận ra sự thật và hành động.

Phía sau sự hào nhoáng của nước Mỹ

Năm 2020, khi có Covid-19 cũng là lúc xuất hiện nhiều cảnh tượng khiến người dân Mỹ nhớ lại giai đoạn đói khổ của cuộc Đại suy thoái 1937. Đó là hình ảnh dòng xe dài hàng dặm trước cửa hàng tạp hóa, công nhân thất nghiệp rồng rắn đi nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp, bệnh nhân xếp hàng qua đêm bên ngoài bệnh viện để được xét nghiệm... Chúng chẳng khác gì hình ảnh một dòng người mệt mỏi xếp hàng chờ cứu trợ năm 1937. Sau lưng họ là tấm áp phích khổng lồ, cổ động về cuộc sống Mỹ, với 2 khẩu hiệu "World’s highest standard of living" (tạm dịch: Tiêu chuẩn sống cao nhất thế giới) và "There’s no way like the American Way" (tạm dịch: Không một phong cách nào giống như Lối sống Mỹ).

Nền kinh tế Mỹ, được ca ngợi vì những thành công kỷ lục gần đây, bất ngờ gặp rủi ro khi những nhu cầu cơ bản nhất như thực phẩm, nơi ở, chăm sóc y tế đột ngột chông chênh. Hôm thứ năm (16/4), Bộ Lao động Mỹ cho biết đã có thêm 5,2 triệu người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp. Suốt 4 tuần qua, đã có 22 triệu người mất việc, bằng tổng số việc làm mới được tạo ra trong 9,5 năm trước khi Covid-19 xuất hiện.

Chắc chắn, sự bùng phát của đại dịch và động thái cố gắng kiềm chế nó sẽ tạo ra những khó khăn mới. Nhưng có lẽ đáng kể hơn là cuộc khủng hoảng đã bộc lộ những lỗ hổng sâu sắc, lâu dài trong hệ thống kinh tế Mỹ.

"Chúng ta xây dựng một nền kinh tế không có khả năng hấp thụ được các cú sốc", Joseph Stiglitz, một nhà kinh tế từng đoạt giải Nobel bình luận, "Chúng ta tạo ra một hệ thống như thể đang tối đa hóa lợi nhuận nhưng có rủi ro cao hơn và khả năng phục hồi thấp hơn".

Ngay trước khi có đại dịch, nền kinh tế Mỹ vốn đã bị phân cực. Một trong những thành tựu ấn tượng là tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong nửa thế kỷ, thị trường chứng khoán tăng vọt và quãng thời gian tăng trưởng liên tục dài kỷ lục.

Ở một mặt rất khác là bất chấp nhiều năm GDP tăng trưởng nhưng người lao động phải vật lộn với nhu cầu thiết yếu. Lịch làm việc không thường xuyên khiến tiền lương hàng tuần tăng đột biến và giảm xuống một cách khó lường. 4 trong số 10 người trưởng thành không có sẵn tiền dự phòng để trang trải cho một chi phí phát sinh đột xuất cỡ 400 USD.

Ngay cả những người Mỹ trung lưu, cũng trở nên ngày càng lo lắng trong những thập kỷ gần đây về tài chính mong manh và triển vọng của con cái họ. Kể từ khi suy thoái kết thúc, nền kinh tế đã tạo ra khối tài sản khổng lồ. Tuy nhiên, người lao động nhận được một phần nhỏ trong số đó.

Trong chưa đầy hai thập kỷ, thu nhập tiền lương và lợi ích ở khu vực tư nhân đã giảm 5,4 điểm phần trăm, theo một nghiên cứu của McKinsey Global Institute vào năm ngoái, tức giảm trung bình 3.000 USD một năm, điều chỉnh theo lạm phát. "Đối với nhiều gia đình lao động, tăng lương chưa đủ mạnh để họ trang trải nhu cầu cơ bản", Fed chi nhánh Boston kết luận trong một báo cáo năm ngoái.

Tại các công ty lớn, nhân viên đã thấy chi phí cho các khoản đóng về chăm sóc sức khỏe tăng nhanh gấp đôi so với tiền lương của họ trong thập kỷ qua, theo Peterson-Kaiser Health System Tracker. Chi phí cho nhà ở cũng tăng lên. Hàng triệu người thuê nhà dành hơn một nửa thu nhập cho nhà ở. Các hộ gia đình có thu nhập trung bình cũng bị ảnh hưởng bởi chi phí nhà ở leo thang. Nhóm này phải dành hơn một phần ba thu nhập cho tiền thuê nhà.

"Rất nhiều người trong nền kinh tế đang sống ở rìa, và một sự kiện như thế này (Covid-19) đẩy họ ra luôn", ông Stiglitz nói, "Chúng ta là nơi duy nhất trong thế giới tiên tiến khi có những người sống ở rìa mà không có mạng lưới an sinh bên dưới".

Tiến bộ công nghệ và toàn cầu hóa được cho là một phần nguyên nhân tạo ra bất ổn kinh tế cho người lao động. Nhưng ông Stiglitz cũng chỉ trích suy nghĩ ngắn hạn phổ biến ở các công ty Mỹ. Các hãng hàng không - đang được hỗ trợ khẩn cấp bởi chính phủ - đã sử dụng hàng tỷ USD lợi nhuận để mua lại cổ phiếu của họ, thay vì đầu tư vào nhân viên, năng lực sản xuất hoặc dự phòng suy thoái.

Chỉ riêng trong năm 2018, các công ty trong S&P 500 đã chi 806 tỷ USD để mua lại cổ phiếu của chính họ với giá đang bùng nổ nhằm tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng. Khi dịch bệnh bắt đầu, nhiều công ty trong số này đã sa thải hàng triệu công nhân, cắt bảo hiểm y tế của họ.

Một cuộc khảo sát gần đây của SurveyMonkey và Apartment List, cho biết một phần tư người thuê nhà chỉ trả một phần hoặc không thể trả nổi trong tháng này. "Những con số này là vô cùng đáng lo ngại", ông Igor Popov, nhà kinh tế trưởng tại Apartment List, đánh giá.

"Trong một cuộc suy thoái kinh tế điển hình, khi thu nhập bị ảnh hưởng, nhiều gia đình có thể thu hẹp diện tích thuê hoặc chuyển đến cùng nhau để giảm thiểu các khoản tiền nhà. Nhưng chúng ta đang trong lệnh 'ở yên tại nhà' nên việc di chuyển và hạ cấp nhà thuê rất khó", ông nói.

Những người khó khăn nhất có thể sẽ gặp khó khăn hơn. Trước khi đại dịch bùng phát, Destination: Home, một tổ chức phi lợi nhuận ở Thung lũng Silicon có kế hoạch hỗ trợ tài chính 7 triệu USD cho khoảng 1.000 gia đình.

Vào tháng 3/2020, tổ chức này đã huy động thêm 11 triệu USD để cứu trợ Covid-19 nhưng đã ngập trong đơn đăng ký. Họ nhận 4.500 đơn chỉ trong 3 ngày và phải ngừng chấp nhận đăng ký. Danh sách chờ đã có gần 10.000 người và đang tăng lên mỗi ngày. "Không có gì mà tôi không từng trải khi nói đến tình trạng vô gia cư", Jennifer Loving, CEO Destination: Home nói. "Nhưng điều này là thảm khốc không thể hiểu nổi".

Trong một báo cáo về tác động kinh tế của đại dịch, Fed chi nhánh Richmond cảnh báo rằng những gánh nặng lớn nhất sẽ rơi vào những người vốn dễ bị tổn thương nhất, tức những người làm công việc lương thấp, không an toàn.

Nguồn tổng hợp