C
ó một thực tế khác đang diễn ra trong cuộc chiến này, đó là một sự thật: phương Tây đã tỏ ra vô trách nhiệm trong cách ứng xử đối với Ukraine và không phải là không có lỗi trong việc ngăn chặn chiến tranh. Kẻ thúc đẩy cuộc chiến này, dù ra mặt như tổng thống Nga, như người hiện đang được ca tụng là tổng thống Ukraine hay những chính khách đang cao giọng rao giảng về hoà bình và lòng nhân ái ở Mỹ và EU, đều đã gây ra một tội ác tồi tệ - tội ác chống lại loài người…
Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu cùng chịu phần lớn trách nhiệm về cuộc khủng hoảng này. Cái gốc của vấn đề là sự mở rộng của NATO, yếu tố trung tâm của một chiến lược lớn hơn nhằm đưa Ukraine ra khỏi quỹ đạo của Nga và hội nhập với phương Tây. Đồng thời, sự mở rộng của EU về phía đông và sự hậu thuẫn của phương Tây đối với phong trào ủng hộ dân chủ ở Ukraine - bắt đầu từ cuộc Cách mạng Cam năm 2004 - cũng là những yếu tố quan trọng.
Mục đích cuối cùng của NATO có phải là hoà bình?
Phương Tây đã có rất nhiều cơ hội hợp lệ - trong nhiều năm - để kiềm chế những xung đột tồi tệ nhất của ông Putin đối với Kyiv khi có thể đã ngăn cản chiến tranh nổ ra một cách hợp lý.
Sau Hội nghị Bucharest, NATO chính thức công bố lối vào tổ chức này trong tương lai của Gruzia và Ukraine. Khi đó, Tổng thống Nga Putin lập tức cảnh báo rằng việc mở rộng NATO sang Ukraine hoặc Gruzia sẽ tạo thành "mối đe dọa trực tiếp" đối với an ninh của nước này. Một tờ báo của Nga đưa tin rằng Putin, trong khi nói chuyện với Bush, "đã rất minh bạch ám chỉ rằng nếu Ukraine được chấp nhận vào NATO, nước này sẽ không còn tồn tại". Bốn tháng sau, ông chứng tỏ rằng ông sẵn sàng sử dụng lực lượng quân sự hạn chế để ngăn chặn việc NATO xâm nhập biên giới của mình bằng cuộc tấn công vào Gruzia.
Sau khi giao tranh nổ ra giữa chính phủ Gruzia và phe ly khai Nam Ossetia, các lực lượng Nga đã giành quyền kiểm soát Abkhazia và Nam Ossetia. Moscow đã đưa ra quan điểm của mình. Tuy nhiên, bất chấp lời cảnh báo rõ ràng này, NATO chưa bao giờ công khai từ bỏ mục tiêu đưa Gruzia và Ukraine vào liên minh.
Vấn đề ở chỗ, NATO - dẫn đầu bởi Mỹ và phương Tây - có thể kiên định với mục tiêu sáp nhập Ukraine và Gruzia vào liên minh nếu họ thật sự kiềm chế được Nga và bảo vệ được an ninh cho các tiểu quốc này. Nhưng NATO đã không làm gì đáng kể, cả việc kiềm chế năng lực quân sự của Nga, lắng nghe Nga hay tăng cường an ninh cho hai tiểu quốc sát sườn Nga. NATO dường như đã đặt mục tiêu hoà bình mà nó vẫn rêu rao dưới mục tiêu khiêu khích và tấn công Nga. Hậu quả cuối cùng không phải NATO gánh chịu, không phải tổng thống Nga hay Ukraine, không phải các tổng thống Mỹ tạo nên câu chuyện thù ghét kẻ thù truyền kiếp Nga phải gánh chịu, mà là máu của phụ nữ, trẻ em, thường dân của Ukraine, máu trên chiến trường của các chàng trai trẻ Nga và Ukraine.
Tháng 3/2014, trong một bài phát biểu trước người dân Nga giải thích động cơ sáp nhập Crimea, Putin cảnh báo rằng “chúng tôi đã nghe những tuyên bố từ Kiev về việc Ukraine sẽ sớm gia nhập NATO. Điều này có ý nghĩa gì đối với Crimea và Sevastopol trong tương lai? Điều đó có nghĩa là hải quân của NATO sẽ có mặt ngay tại thành phố của sự vinh quang quân sự này của Nga, và điều này sẽ không tạo ra một ảo ảnh mà là một mối đe dọa hoàn toàn có thật đối với toàn bộ miền nam nước Nga".
Điều đó lẽ ra đã loại bỏ mọi nghi ngờ trong tâm trí của bất kỳ ai rằng Putin sẽ không ngần ngại sử dụng vũ lực - một lần nữa - để ngăn NATO tiến đến biên giới của Nga.
Vào thời điểm đó, các nhà lãnh đạo NATO lẽ ra phải thừa nhận một thực tế rằng ngay cả việc coi Kyiv xin gia nhập liên minh là một điều không nên. Việc mở rộng tư cách thành viên cho Kyiv, theo bất kỳ cách nào, sẽ không củng cố NATO. Thay vào đó, nó sẽ dẫn đến sự bất ổn và tăng nguy cơ một cách vô nghĩa rằng tất cả 30 thành viên một ngày nào đó sẽ phải thực hiện tốt Điều khoản 5 mà nếu không sẽ ảnh hưởng đến an ninh của họ. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo liên minh và Hoa Kỳ phớt lờ thực tế và tiếp tục công khai tán thành viễn cảnh gia nhập tương lai của Ukraine.
Mùa xuân năm 2021, Tổng thống Nga Putin một lần nữa phát đi tín hiệu mạnh mẽ - bằng cách lập hơn 100.000 quân ở biên giới Ukraine - rằng ông sẵn sàng xâm lược Ukraine nếu NATO tiếp tục thúc ép nước này trở thành thành viên. Trong một bài phát biểu cấp quốc gia vào tháng đó, ông Putin cho biết nếu bất kỳ quốc gia nào đe dọa nền an ninh cơ bản của Nga, họ “sẽ hối hận về hành động của mình”. Ông hy vọng “không ai có ý tưởng vượt qua cái gọi là lằn ranh đỏ với Nga”, ông Putin cảnh báo một cách đáng ngại.
Đầu tháng 12/2021, Putin một lần nữa cảnh báo rằng việc NATO mở rộng sang Ukraine là một “lằn ranh đỏ” nghiêm trọng. Đáp lại, Jans Stoltenberg, Tổng thư ký NATO, đã đồng ý với thái độ từ chối trực diện cảnh báo của Putin. Stoltenberg kiên quyết cảnh báo liên minh nên đứng vững trước quyết định năm 2008 “về vấn đề Ukraine có khả năng trở thành thành viên NATO. Đến giữa tháng Hai, lượng quân của Putin đã lên tới 150.000 người. Sau tất cả những lời cảnh báo và sự xuất hiện của một lực lượng xâm lược đầy đủ ở biên giới Ukraine, rõ ràng Putin đã sẵn sàng thực hiện tốt những lời đe dọa của mình.
Thay vào đó, các nhà lãnh đạo Mỹ và NATO phớt lờ nguy cơ xảy ra chiến tranh với Ukraine, về cơ bản gọi Putin là trò bịp bợm, tung xúc xắc để xem ông ta có cố ý hay không.
Phải nhắc lại là: Putin hoàn toàn sai 100% với cuộc tấn công của mình và một mình ông ấy phải chịu trách nhiệm về cái chết của rất nhiều người Ukraine dũng cảm. Nhưng các nhà lãnh đạo phương Tây, trong 15 năm, đã mù quáng phớt lờ thực tế khi họ có thể, ở bất kỳ thời điểm nào, loại bỏ áp lực chiến tranh, làm tăng khả năng Ukraine tiếp tục là một quốc gia độc lập, trung lập trong tương lai.
Lời hứa của phương Tây
NATO được hình thành với sứ mệnh ban đầu là đánh đổ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Và nó đã thành công. Chỉ là sau khi Liên Xô tan rã, NATO đã quên mất sứ mệnh xoá sổ chủ nghĩa cộng sản của mình, nó không hướng mũi dùi sang Trung Quốc ở phương đông càng không tự giải thể. Điều duy nhất NATO làm sau khi Liên Xô tan rã là buộc Nga phải trở thành kẻ thù số một của Mỹ và phương Tây. Nga không có bất kỳ lựa chọn nào khác. Để làm được điều đó, NATO liên tục thất hứa với Nga.
Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn rằng các lực lượng Mỹ ở lại châu Âu và NATO vẫn giữ nguyên vẹn, một thỏa thuận mà họ nghĩ sẽ giữ cho một nước Đức thống nhất được bình định. Các nhà lãnh đạo Liên Xô và những người Nga kế nhiệm không muốn NATO phát triển lớn hơn nữa và cho rằng các nhà ngoại giao phương Tây hiểu mối quan tâm của họ.
Phương Tây đã hứa với Nga rằng họ sẽ không mở rộng NATO khi Liên Xô sụp đổ. Họ đã phá bỏ lời hứa đó và hợp nhất gần như toàn bộ Khối phía Đông vào NATO.
Chính quyền Clinton lờ đi lời hứa của Mỹ từ hồi chính quyền Bush (cha). Vào giữa những năm 1990, tổng thống Mỹ Clinton đã bắt đầu thúc đẩy NATO mở rộng. Vòng mở rộng đầu tiên diễn ra vào năm 1999 và được tổ chức tại Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan. Vụ thứ hai xảy ra vào năm 2004; bao gồm Bulgaria, Estonia, Latvia, Litva, Romania, Slovakia và Slovenia.
Sau đó, NATO bắt đầu nhìn xa hơn về phía đông. Tại hội nghị thượng đỉnh tháng 4/2008 ở Bucharest, liên minh này đã cân nhắc việc kết nạp Gruzia và Ukraine. Chính quyền George W. Bush (con) ủng hộ việc làm đó, nhưng Pháp và Đức phản đối động thái này vì sợ rằng nó sẽ gây phản cảm quá mức đối với Nga. Cuối cùng, các thành viên của NATO đã đạt được một thỏa hiệp: liên minh không bắt đầu quy trình chính thức dẫn đến việc trở thành thành viên, nhưng họ đã đưa ra một tuyên bố tán thành nguyện vọng của Gruzia và Ukraine khi mạnh dạn tuyên bố: "Các nước này sẽ trở thành thành viên của NATO".
Thế lực của Mỹ và phương Tây không chỉ thất hứa với NATO. Sau ngày 11/9, Tổng thống Mỹ Bush (con) đã đơn phương hủy bỏ hiệp ước ABM '72, hiệp ước mà cho đến nay đã đóng băng việc phát triển vũ khí hạt nhân ở Liên Xô và Mỹ, chấm dứt hiệu quả cuộc chạy đua vũ trang. Cơ sở lý luận của Bush là chúng ta cần phát triển công nghệ vũ khí hạt nhân mới để đánh bại chủ nghĩa khủng bố. Như thể chúng ta sẽ tiêu diệt Osama bin Laden.
Và sự mở rộng của NATO tiếp tục tiến về phía trước, với Albania và Croatia trở thành thành viên vào năm 2009. EU cũng đang tiến về phía đông. Tháng 5/2008, họ đã công bố sáng kiến Đối tác phương Đông, một chương trình nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng ở các nước như Ukraine và hội nhập các nước này vào nền kinh tế EU.
Hơn nữa, Mỹ đã gây ra một cuộc đảo chính ở Ukraine vào năm 2014, lật đổ tổng thống được bầu một cách dân chủ, thân thiện với Nga và cài đặt một nhà lãnh đạo thân phương Tây, thân NATO. Putin đã để mắt đến Ukraine từ đó nhưng không dám làm gì khi Trump còn cầm quyền vì ông ấy sợ và tôn trọng Trump.
Trước khi ông Yanukovych bị buộc thôi nhiệm sở, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã cáo buộc EU đang cố gắng tạo ra một “vùng ảnh hưởng” ở Đông Âu. Trong mắt các nhà lãnh đạo Nga, sự mở rộng của EU là con ngựa bất kham cho sự bành trướng của NATO.
Phương Tây đã tạo khủng hoảng như thế nào?
Hãy tưởng tượng sự phẫn nộ của người Mỹ nếu Trung Quốc xây dựng một liên minh quân sự ấn tượng và cố gắng bao gồm Canada và Mexico.
Bộ ba chính sách của phương Tây - mở rộng NATO, mở rộng EU và thúc đẩy dân chủ - đã đổ thêm dầu vào lửa đang chờ bùng cháy.
Sự bùng nổ xuất hiện vào tháng 11/2013, khi tổng thống Ukraine là ông Yanukovych từ chối một thỏa thuận kinh tế lớn mà ông đang đàm phán với EU và thay vào đó quyết định chấp nhận một khoản hỗ trợ 15 tỷ USD của Nga. Quyết định đó đã dẫn đến các cuộc biểu tình chống chính phủ leo thang trong ba tháng sau đó và vào giữa tháng Hai đã dẫn đến cái chết của khoảng 100 người biểu tình. Các sứ giả phương Tây vội vã bay đến Kiev để giải quyết cuộc khủng hoảng.
Vào ngày 21/2/2014, chính phủ và phe đối lập đã đạt được một thỏa thuận cho phép ông Yanukovych tiếp tục nắm quyền cho đến khi các cuộc bầu cử mới được tổ chức. Nhưng nó ngay lập tức tan rã. Tổng thống Ukraine Yanukovych đã bỏ trốn sang Nga vào ngày hôm sau.
Chính phủ mới ở Kiev lấy việc thân phương Tây và chống Nga trở thành tinh thần cốt lõi. Chính phủ này bao gồm bốn thành viên cấp cao, những người có thể được coi là những người theo chủ nghĩa phát xít một cách hợp pháp. Mặc dù toàn bộ mức độ can dự của Hoa Kỳ vẫn chưa được đưa ra ánh sáng, nhưng rõ ràng là Washington đã hậu thuẫn cho cuộc đảo chính này.
Không có gì ngạc nhiên khi những người Nga đều thấy thuyết phục khi cho rằng phương Tây đã đóng một vai trò quan trọng trong việc lật đổ cựu tổng thống Ukraine Yanukovych.
Đối với ông Putin, thời điểm để hành động chống lại Ukraine và phương Tây đã đến. Ngay sau ngày 22/2/2014, ông ta đã ra lệnh cho các lực lượng vũ trang của Nga chiếm Crimea từ Ukraine, và ngay sau đó, sáp nhập mảnh đất này vào Nga. Nhiệm vụ này tỏ ra tương đối dễ dàng nhờ hàng nghìn binh sĩ Nga đã đóng tại một căn cứ hải quân ở cảng Sevastopol của Crimea.
Crimea cũng trở thành một mục tiêu dễ dàng vì người dân tộc Nga chiếm khoảng 60% dân số. Hầu hết trong số họ muốn rời khỏi Ukraine. Tiếp theo, Putin gây áp lực lớn lên chính phủ mới ở Kiev để ngăn cản nước này đứng về phía phương Tây chống lại Moscow, nói rõ rằng ông sẽ phá hủy Ukraine như một nhà nước đang hoạt động trước khi ông cho phép nước này trở thành thành trì của phương Tây ngay trước cửa nhà của Nga.
Để đạt được mục tiêu đó, ông đã cung cấp cố vấn, vũ khí và hỗ trợ ngoại giao cho phe ly khai Nga ở miền đông Ukraine, những người đang đẩy đất nước vào cuộc nội chiến. Ông ta đã tập trung một đội quân lớn ở biên giới Ukraine, đe dọa sẽ xâm lược nếu chính phủ đàn áp quân nổi dậy. Và ông ta đã tăng mạnh giá khí đốt tự nhiên mà Nga bán cho Ukraine và yêu cầu thanh toán cho những lần xuất khẩu trước đây.
NATO ‘bảo vệ hoà bình’, Putin ‘bảo vệ tổ quốc’, ai bảo vệ mạng dân?
Ukraine thuộc về Nga trong nhiều thế kỷ. Hai quốc gia có nền văn hóa và ngôn ngữ gần như giống hệt nhau. Kyiv từng là thủ đô của Nga. Nga cảm thấy bị đe dọa vì sự mở rộng của NATO. Nga là một cường quốc lục địa chủ yếu dựa trên đất liền, mong muốn có một vùng đệm với phương Tây. Ukraine phục vụ mục đích đó một cách hoàn hảo.
Kể từ giữa những năm 1990, các nhà lãnh đạo Nga đã kiên quyết phản đối việc mở rộng NATO và trong những năm gần đây, họ đã tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ không đứng nhìn khi nước láng giềng quan trọng chiến lược của họ biến thành pháo đài của phương Tây.
Đối với Putin, việc lật đổ bất hợp pháp tổng thống được bầu một cách dân chủ và thân Nga của Ukraine - mà ông đã gọi một cách đúng đắn là một “cuộc đảo chính” - là cọng rơm cuối cùng. Ông đáp trả bằng cách chiếm lấy Crimea, bán đảo mà ông lo ngại sẽ là nơi đặt căn cứ hải quân của NATO, và làm mọi việc để gây bất ổn cho Ukraine cho đến khi nước này từ bỏ nỗ lực gia nhập phương Tây.
Một vùng đất bằng phẳng rộng lớn mà Pháp thời Napoléon, đế quốc Đức và Đức Quốc xã đều vượt qua để tấn công chính nước Nga, Ukraine đóng vai trò là một quốc gia vùng đệm có tầm quan trọng chiến lược to lớn đối với Nga.
Không một nhà lãnh đạo Nga nào có thể dung thứ cho một liên minh quân sự vốn là kẻ thù truyền kiếp của Moscow mà Ukraine muốn tham gia vào. Cũng không có nhà lãnh đạo Nga nào đứng yên trong khi phương Tây giúp thành lập một chính phủ ở đó để quyết tâm hội nhập Ukraine vào phương Tây.
Washington có thể không thích quan điểm của Moscow, nhưng họ nên hiểu logic đằng sau đó. Đây là nguyên lý địa chính trị cơ bản: các cường quốc luôn nhạy cảm với các mối đe dọa tiềm tàng gần lãnh thổ quê hương của họ.
Sự phản đối của Putin lẽ ra không có gì đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng, phương Tây đã tiến vào sân sau của Nga và đe dọa các lợi ích chiến lược cốt lõi của nước này, một điểm mà Putin đã nhấn mạnh và lặp đi lặp lại.
Hầu hết các quan chức phương Tây đều miêu tả Putin là ‘tên phát xít’, ‘tên đồ tể', người phải chịu trách nhiệm về tất cả tình trạng hiện nay ở Ukraine. Báo chí dòng chính của phương Tây ca ngợi Tổng thống Ukraine thân Mỹ và phương tây Zenleskyy như một người hùng; người đã không quan tâm tới cái giá phải trả của đất nước, dân tộc khi khăng khăng đòi vào NATO. Cho tới giờ, bất chấp sinh mạng người Ukraine, sinh mạng binh lính hai bên đã đổ xuống chiến trường, cánh cửa vào NATO đã hoàn toàn đóng lại với Ukraine.
Mặc dù Putin chắc chắn có khuynh hướng chuyên quyền, nhưng không có bằng chứng nào chứng minh cáo buộc rằng ông ấy không cân bằng về mặt tinh thần. Ngược lại: ông là một chiến lược gia hạng nhất, người mà bất cứ ai thách thức ông về chính sách đối ngoại đều phải nể sợ và kính trọng.
Các nhà phân tích khác cáo buộc một cách chính đáng hơn rằng Putin lấy làm tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô và quyết tâm đảo ngược nó bằng cách mở rộng biên giới của Nga. Theo cách giải thích này, Putin, sau khi chiếm Crimea, hiện đang kiểm tra vùng biển này để xem liệu thời điểm thích hợp để chinh phục Ukraine, hoặc ít nhất là phần phía đông của nó, và cuối cùng ông sẽ hành xử hung hăng đối với các quốc gia khác trong khu vực lân cận của Nga.
Đối với một số người theo quan điểm này, Putin đại diện cho một Adolf Hitler thời hiện đại, và bất kỳ thỏa thuận nào với ông ta sẽ lặp lại sai lầm của Munich. Vì vậy, NATO phải thừa nhận Gruzia và Ukraine để kiềm chế Nga trước khi nước này lấn lướt các nước láng giềng và đe dọa Tây Âu.
Lập luận này sẽ bị loại bỏ khi xem xét chặt chẽ. Nếu Putin cam kết tạo ra một nước Nga vĩ đại hơn, các dấu hiệu đã cho thấy ý định của ông gần như chắc chắn sẽ xuất hiện trước ngày 22/2/2014. Nhưng hầu như không có bằng chứng nào cho thấy ông ta muốn chiếm Crimea huống là bất kỳ lãnh thổ nào khác ở Ukraine trước ngày đó.
Các hành động của ông Putin ở Crimea hồi đó đã khiến các nhà lãnh đạo phương Tây hoàn toàn bất ngờ và dường như có một phản ứng tự phát trước việc lật đổ Yanukovych. Ngay sau đó, ngay cả Putin cũng cho biết ông phản đối việc Crimea ly khai trước khi nhanh chóng thay đổi quyết định.
Bên cạnh đó, ngay cả khi muốn, Nga cũng không có khả năng dễ dàng chinh phục và thôn tính miền đông Ukraine huống là toàn bộ đất nước này. Khoảng 15 triệu người – 1/3 dân số Ukraine - sống giữa sông Dnepr, con sông chia đôi đất nước và biên giới Nga. Đa số những người đó muốn tiếp tục là một phần của Ukraine và chắc chắn sẽ chống lại sự chiếm đóng của Nga.
Hơn nữa, đội quân tầm thường của Nga, ít có dấu hiệu biến thành một chiếc Wehrmacht hiện đại, sẽ có rất ít cơ hội bình định được toàn bộ Ukraine. Moscow cũng có vị thế kém để trả giá cho một cuộc chiếm đóng tốn kém; nền kinh tế yếu kém của nước này sẽ còn bị ảnh hưởng nhiều hơn khi đối mặt với các lệnh trừng phạt.
Phương Tây đang dựa vào các biện pháp trừng phạt kinh tế để buộc Nga chấm dứt ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền đông Ukraine. Họ cũng đe dọa sẽ tung ra một vòng trừng phạt khác, cứng rắn hơn, nhằm vào toàn bộ các lĩnh vực của nền kinh tế Nga. Các biện pháp như vậy sẽ có rất ít tác dụng.
Dù sao thì các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt cũng có thể bị gạt khỏi bàn đàm phán; Các nước Tây Âu, đặc biệt là Đức, đã chống lại việc áp đặt họ vì sợ rằng Nga có thể trả đũa và gây ra thiệt hại kinh tế nghiêm trọng trong EU. Nhưng ngay cả khi Hoa Kỳ có thể thuyết phục các đồng minh của mình ban hành các biện pháp cứng rắn, ông Putin có thể sẽ không thay đổi quyết định của mình. Lịch sử cho thấy các quốc gia sẽ phải chịu những hình phạt khổng lồ để bảo vệ lợi ích chiến lược cốt lõi của họ. Không có lý do gì để nghĩ rằng Nga đại diện cho một ngoại lệ đối với quy tắc này.
Các đồng minh phương Tây nên làm gì?
Một giải pháp cho cuộc khủng hoảng ở Ukraine - mặc dù nó sẽ đòi hỏi phương Tây phải suy nghĩ về đất nước này theo cách mới: Hoa Kỳ và các đồng minh nên từ bỏ kế hoạch phương Tây hóa Ukraine và thay vào đó nên nhằm mục đích biến nước này thành vùng đệm trung lập giữa NATO và Nga, giống như quan điểm của Áo trong Chiến tranh Lạnh.
Các nhà lãnh đạo phương Tây nên thừa nhận rằng Ukraine quan trọng nhiều đối với Putin đến mức họ không thể ủng hộ một chế độ chống Nga ở đó. Điều này không có nghĩa là một chính phủ Ukraine trong tương lai sẽ phải thân Nga hoặc chống NATO. Ngược lại, mục tiêu phải là một Ukraine có chủ quyền, không nằm trong phe của Nga và phương Tây.
Để đạt được mục tiêu này, Hoa Kỳ và các đồng minh nên công khai loại trừ việc NATO mở rộng sang cả Gruzia và Ukraine. Phương Tây cũng nên giúp đưa ra một kế hoạch giải cứu kinh tế cho Ukraine do EU, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nga và Hoa Kỳ tài trợ - một đề xuất mà Moscow nên hoan nghênh, vì họ quan tâm đến việc có một Ukraine thịnh vượng và ổn định ở sườn tây của mình.
Và phương Tây nên hạn chế đáng kể các nỗ lực xây dựng xã hội của mình bên trong Ukraine. Đã đến lúc chấm dứt sự ủng hộ của phương Tây cho một cuộc Cách mạng Cam khác. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và châu Âu nên khuyến khích Ukraine tôn trọng các quyền của người thiểu số, đặc biệt là quyền ngôn ngữ của những người nói tiếng Nga.
Một số người có thể cho rằng việc thay đổi chính sách đối với Ukraine vào thời điểm muộn này sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của Mỹ trên toàn thế giới. Chắc chắn sẽ có những chi phí nhất định, nhưng chi phí của việc tiếp tục một chiến lược sai lầm sẽ lớn hơn nhiều.
Hơn nữa, các quốc gia khác sẽ càng tôn trọng một quốc gia học hỏi từ những sai lầm của mình và cuối cùng đưa ra một chính sách giải quyết hiệu quả vấn đề đang xảy ra. Lựa chọn đó rõ ràng là mở cho Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, ngay cả khi người bác bỏ phân tích này và tin rằng Ukraine có quyền kiến nghị gia nhập EU và NATO, thì thực tế vẫn là Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu có quyền từ chối những yêu cầu này. Không có lý do gì mà phương Tây phải dung túng Ukraine nếu nước này muốn theo đuổi một chính sách đối ngoại sai lầm, đặc biệt nếu quốc phòng của họ không phải là lợi ích sống còn. Việc mê đắm những giấc mơ của một số người Ukraine là không đáng để tạo ra sự thù hận và xung đột, đặc biệt là đối với người dân Ukraine.
Tất nhiên, một số nhà phân tích có thể thừa nhận rằng NATO xử lý mối quan hệ với Ukraine không tốt nhưng vẫn cho rằng Nga là kẻ thù sẽ ngày càng trở nên đáng gờm hơn theo thời gian - và phương Tây do đó không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục chính sách hiện tại. Nhưng quan điểm này là sai lầm nghiêm trọng. Nga là một cường quốc đang suy giảm và sẽ chỉ yếu đi theo thời gian.
Hơn nữa, ngay cả khi Nga là một cường quốc đang lên, việc kết nạp Ukraine vào NATO sẽ không có ý nghĩa gì. Lý do rất đơn giản: Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu không coi Ukraine là lợi ích chiến lược cốt lõi vì việc họ không sẵn sàng sử dụng vũ lực quân sự để viện trợ đã chứng tỏ điều này. Do đó, sẽ là đỉnh cao của sự điên rồ khi tạo ra một thành viên NATO mới mà các thành viên khác không có ý định bảo vệ.
Việc gắn bó với chính sách hiện tại cũng sẽ làm phức tạp thêm mối quan hệ của phương Tây với Moscow về các vấn đề khác. Hoa Kỳ cần sự trợ giúp của Nga để rút các thiết bị của Hoa Kỳ khỏi Afghanistan qua lãnh thổ Nga, đạt được thỏa thuận hạt nhân với Iran và ổn định tình hình ở Syria.
Trên thực tế, Moscow đã giúp Washington cả ba vấn đề này trong quá khứ; Vào mùa hè năm 2013, chính Putin là người đã rút món hạt dẻ của Obama ra khỏi lửa khi tạo dựng thỏa thuận mà theo đó Syria đồng ý từ bỏ vũ khí hóa học, do đó tránh được cuộc tấn công quân sự của Mỹ mà Obama đã đe dọa.
Một ngày nào đó, Hoa Kỳ cũng sẽ cần sự giúp đỡ của Nga trong việc ngăn chặn một Trung Quốc đang trỗi dậy. Tuy nhiên, chính sách hiện tại của Mỹ chỉ đang thúc đẩy Moscow và Bắc Kinh xích lại gần nhau hơn.
Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu hiện đứng trước sự lựa chọn về vấn đề Ukraine. Họ có thể tiếp tục chính sách hiện tại của mình, điều này sẽ làm trầm trọng thêm sự thù địch với Nga và tàn phá Ukraine trong quá trình này - một kịch bản mà trong đó mọi người sẽ trở thành kẻ thua cuộc.
Hoặc họ có thể chuyển bánh răng và làm việc để tạo ra một Ukraine thịnh vượng nhưng trung lập, một Ukraine không đe dọa Nga và cho phép phương Tây sửa chữa quan hệ với Moscow. Với cách tiếp cận đó, tất cả các bên sẽ giành chiến thắng.
Tác giả Thuỷ Tiên | NTDN
NGUỒN TIN THAM KHẢO
https://www.19fortyfive.com/2022/03/putins-blood-war-in-ukraine-was-15-years-in-the-making/
https://www.americanthinker.com/blog/2022/03/heres_the_truth_on_ukraine_as_far_as_i_can_tell.html
https://www.natur.cuni.cz/geografie/socialni-geografie-a-regionalni-rozvoj/studium/doktorske-studium/kolokvium/kolokvium-2013-2014-materialy/ukrajina-a-rusko-mearsheimer-souleimanov.pdf
* Please Don't Spam Here. All the Comments are Reviewed by Admin.