Thú uống trà bắt đầu từ thời Thần Nông truyền sang Tru Công nước Lỗ. Như vậy, loài người biết uống trà vào khoảng năm 3300- 3100 trước Công nguyên. Qua các thời đại Trung Quốc, tục uống trà và tác dụng của cây trà ngày được nâng cao và khai thác triệt để. Cách uống trà cũng theo những con đường buôn bán tơ lụa, đồ gốm và qua sự giao lưu của các thương gia toả khắp thế giới.
Tham khảo thêm: Nghi thức Trà đạo| Nghệ thuật Trà đạo
Cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với thiền là trà Trung Quốc tràn qua Nhật. người Nhật tiếp thu cả hai thứ văn hoá vật chất và tôn giáo này, đem nó hoà vào văn hoá bản địa và nâng lên thành triết lý riêng của dân tộc Nhật, gọi là Trà đạo.Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian này, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141 - 1215), sang Trung Hoa để tham vấn học Đạo. Khi trở về nước, sư Eisai mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai đã sáng tác ra cuốn “ Phẩm trà dưỡng sinh ký” (Kissa yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.
Những công dụng của trà về mặt y khoa và hương vị hấp dẫn, đặc biệt của trà đã thu hút nhiều người dân Nhật đến với cái thú uống trà. Họ đã kết hợp giữa thú uống trà với tinh thần của phật giáođê nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo. Trà đạo phát triển dựa trên triết lý xem uống trànhư là một thú tiêu khiển thanh tao và nghi lễ của việc uống trà do các sư thiền tông đặt ra để giữ cho họ thức tỉnh. Đến đời thiền sư Senno Rikyu (1521 - 1591) thì trà đạo ở Nhật thực sự trở thành một nghệ thuật gắn liền với đời sống thiền, thông qua việc định nghĩa các yêu cầu của trà đạo như là sự hài hoà, tĩnh lặng, thanh khiết và trang trọng. Như Kakuzo Okakura đã viết trong cuốn “Quyển sách về trà” xuất bản vào năm 1906:
“Trà đạo là một giáo phái được sáng lập dựa trênlòng tôn thờ cái đẹp, cái đẹp giữa những thực tế nhớp nhúa trần ai. Trà đạo bao gồm những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm linh tôn giáo, biến việc uống trà trở thành một cuộc lễ. Bất cứ một thiền thất nào của môn phái Trà đạo đều có những trà thất. Tuy được xây dựng hết sức giản dị, tự nhiên nhưng được coi la nơi thiêng liêng nhất. Đó là những gian nhỏ được ghép bằng tre, gỗ, lợp tranh rất đơn sơ . Trong nhà bài trí một vài bức thư pháp cổ, hoặc tranh thuỷ mặc. một bếp đun nước, một lò hương thơm, một lọ hoa cắm chỉ một bông như mộc lên từ kẽ đá. Ngồi trong căn phòng lặng im nghe tiếng nước sôi nhè nhẹ như tiếng gió. người ta cảm thầy như ngồi giữa một thảo am nơi sơn dã, chỉ có mây trắng và tiếng nhạc thiên nhiên làm bạn, lòng cảm thấy thanh thoát. Con người như vượt lên trên những giới hạn tương đối và một thoáng nhìn vào vĩnh cửu. Ấm trà được sắp lên toả hương thơm thanh tao, tinh khiết. Uống chén thứ nhất thấy lòng tĩnh lặng, tâm không giao động, tự soi được vào cõi tâm mình. Thiền nhân gọi đó là trang thái vấn tuệ.Uống xong chén thứ hai thấy nơi ấn đường ấm nóng, tư duy thiền sắp được khai thông. Uống xong chén thứ ba cả hai trang thái trên đều biến mất. Thân xác như hoà vào trời đất. người ta nói đó là trang thái đạt tớ thiền và là trà đạo.”
Theo hai cuốn sách “ The empire of Tea: The remarkable history of plant That took over the World”( Đế quốc trà) của Alan Macfarlane andIris Macfalane và “Tea: addiction, Exploitation, and Empire” ( Trà: nghiện, bóc lột và Đếquốc) của Roy Moxham mới xuất bản gần đây thì các tác giả người anh này thuật lại thì các nhà buôn bán tây phương để ý đến trà vào khoảng thế kỷ 17. Cuốn “Đế quốc trà” mở đầu với một hồi ký ngắn và cảm động của Iris về nhân thức văn hoá mà bà mang theo cùng chồng đến nông trại trồng trà Assam. Bà viết:
“ Tôi lớn lên với tất cả những mưu mẹo, những lời nói hoa mỹ: Rằng ‘Bên ấy ở Ấn Độ’có những ngưòi da ngăm thấp kém không thể cứu chữa, những người rất may mắn được chúng ta cai trị”. Sau đó thì tác giả kể lại những tình trạng đối xử tàn bạo với những công nhân làm việc trong các nông trại trồng trà, những hôi tưởng buồn bã. Cuốn “Đế quốc trà” phân tích một cách dí dỏm sắc nước của trà và qua đó suy luân về vai trò của trà trong việc duy trì một hệ thống trật tự xã hộitheo đẳng cấp ở Anh. Tác giả còn tìm cách trả lời một câu hỏi: Có phải quả thật trà đã thuần hoá người Anh? Có phải trà làm cho những người da trắng, thích ăn thịt đỏ và uống bia trở thành những người hiền lành hơn và dễ mến hơn? không! Đó là câu trả lời. những người Anh, chủ đồn điền trà, khinh miệt công nhân người bản xứ, họ cho đó là những cu-li(coolies). Họ đối xử tàn bạo với những phu người địa phương và gây cái chết cho hàng trăm ngàn người. Theo thốngkê của Moxham, cho đến năm 1900, có hơn 200.000 mẫu trà được khai khẩn và trồng trong rừng Assam và nó cũng làm mất đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người phu Ấn Độ nhưng chỉ vài mạng người Anh. Đó chỉ là một thảm nạn trồng trà ở vùng Assam; nhiều thảm nạn còn xẩy ra ở Darjeeling, Tichlan(Ceylon) , và nhiều nơi khác. Quy trình sản xuất trà ớ Ấn Độ được mô phỏng theo cách tổ chức sau cuộc cách mạng kỹ nghệ: Giờ làm việc dài, điều kiện làm việc cực xấu và thiếu an tàon. Marfalane viết:” Công nhân trở thành một phần của bộ mắy sản xuất khổng lồ. Trong bộ máy đó họ là những con người làm việc nhàm chán và không cần đến trí óc, đó là chưa kể đến tình trang công nhân phải đứng hết giờ này đến giờ khác để hái trà. Thật khó tưởng tượng nổi!”
Trà, ngoài là thức uống và là những công dụng tốt cho sức khoẻ, cái” lá cây thơm ngát” này đã là đề tài làm say mê những nghệ nhân để sáng tạo ra những bình sứ thời xưa ở Việt Nam, Nhật Bản và Trung Hoa. Trà đã là chất xúc – tác khuyến khích các tay thực dân Âu Châu; là chất trâm ngòi cuộc chiến tranh nha phiến; là cảm hứng cho những nhà thiết kế thuyền bè vào thế kỷ 19th ; và là một trong những nguồn cung cấp sinh lực cho cuộc cách mạng kỹ nghệ.
Gần đây ở Việt Nam có nhiều trà quán mở cửa theo nhu cầu của thị trường, tôi tình cờ đọc được một số bài viết so sánh và tỏ ý ngưỡng mộ nghệ thuật uống trà của Nhật và Trung Hoa. phải công nhận là các nước khác thành công hơn Việt Nam trong việc quảng bá truyền thống tốt đẹp của dân tộc học. Trà đạo của nhật nổi tiếng đã lâu, Trung Hoa thì cũng vậy. Mặc dù theo truyền thuyết thì Việt Nam đã biết đến trà từ thời Đông Hán và trà đạo Việt hình thành vào đời Nhà Đường. Sách Tya Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng:” Trà là loại cây lớn ở phương nam”. Chứng tích trà đạo Việt còn lưu lại trên những bình bát trà gốm Việt Dao, từ thời Bắc thuộc, lên đến tột đỉnh thời Lý, Trần, thời phật giáo thịnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Trà đạo Việt là đạo mà không đạo, đạo vô môn quan: không cửa vào, không lối ra. Cũng như Việt Nam,Phật giáo ở Nhật bén dễ vào giới thế quyền. Tăng sư là khách quý của các sứ quân và các phú hào. Họ học phật rồi tiêm nhiễm luôn đạo thưởng trà. uống trà nhằm luyện con người khu trừ những chướng ngại phiền não, để đạt chỗ rốt ráo của an bần lạc đạo, hoà đồng với tự nhiên, tức là Chân Như. Và uống trà, hành trà Đạo phải có các trà khí mà ngành gốm nhật bấy giờ rất phôi thai. Nên trà gốm từ Caoly, Trung Hoa, Đại Việt đưa sang giá đắt, chỉ được xử dụng giới hạn trong hàng sứ quân và đại phú. Thay vì hấp thu nếp thanh bần, họ bèn mượn trà đạo làm trò trà dư tiêu khiển, đặt ra các quy tắc kiểu cách (Cha No Yu), muốn vào phải qua cổng Hữu Môn Quan. Trà đã đưa thiền vị đạm bạc vào trú ngụ nơi Đền, Các xa hoa. Trong khuôn viên cung đình nguy nga, các lãnh chúa xây dựng lên trà thất bắt chước nều cỏ bần hàn của ẩn sĩ để hành trà đạo. Còn bên nước Việt, đạo đã từng cung cấp rađi, bỏ phú quý phù vân để phiêu bồng nơi cảnh thật của” rừng trúc lắm chim “ (Trúc lâm đa túc điểu) như thơ ngày Huyền Quang. Các vua Lý, Trần bỏ kinh về núi, thực hiện hạnh tầm đạo, dẫm theo bước chân của Đức Phật. Đây là chỗ khác biệt trong lịch sử thiền đạo Việt - Nhật.
Thời đại chúng ta đang sống, kỹ thuật hiện đại cho phép mọi người tiếp xúc với môi trường bên ngoài, với các nền văn hoá khác nhau trên thế giới, tạo điều kiện cho việc học hỏi các điều mới lạ và bổ ích để mở mang kiến thức, để áp dụng cho lợi ích của ban thân va đất nước. nhưng chúng ta phải biết gạn lọc và đừng quên gốc rễ của mình. Ngưỡng mộ, thích và trân trọng trà đạo của Nhật Bản hay Trung Hoa thì cũng tốt, nhưng so sánh và chê bai nghệ thuật và phong cách uống trà hay trà Việt Nam là một điều không đúng nhất là khi chỉ dựa vào mấy “trà quán”phục vụ nhu cầu nhất thời của thị trường. Cái áo kimono của Nhật, áo Sường-sám của Trung Hoa, cái áo dài của Việt Nam mỗi cái có những nét đẹp riêng. Ở đời không có gì là tuyệt đối, hoàn hoả. Và người ta thường nói “ có nằm trong chăn mới biết chăn có rận” , và không có một quốc gia nào hoàn hảo hơn một quốc gia nào. Tách trà thơm ở Việt Nam đã từ lâu là quà đón khách, là tâm tình của chủ nhà với khách viếng thăm. Không thể nói là vì người Việt Nam không pha chế trà cầu kỳ như người Nhật hay người Trung Hoa nên vì vậy mà thịnh tình của chủ với khách suy giảm. phần tôi thì uống trà đạo theo trà đạo của Nhật Bản hay Trung Hoa thì cũng rất ngưỡng mộ, và áo Kimono hay Sường- Sám, cung rất đẹp mắt… Nói cách khác là tội chỉ “ cưỡi ngựa xem hoa”. nhưng tách trà Việt Nam tôi sẽ pha đãi khách và chiếc áo dài Việt Nam vẫn là đẹp nhất, gần gũi thân thương nhất. Lý do rất đơn giản vì tôi là người Việt Nam.
Riêng về phong cách uốngtrà haythiền đạo thì vô môn quan(Việt Nam) hay Hữu môn quan (Nhật Bản)…”tốt” hơn? Tôi xin phép gửi đến các bạn câu truyện ”trà đạo” dưới đây:
“Khách đến viếng một trà thất, chủ nhân tiếp đón theo nghi phong trà đạo Nhật Bản, khách thì lại cứ rót uống tự nhiên không theo luật lệ nao cả. Chủ nhân liền thuyết trình về trà đạo, về cách pha trà và phong thái uống trà…v.v. Nghe xong khách nói :
- À, thì ra trà đạo là vậy. Tôi lại tưởng đạo trà là khát thì uống thôi chứ. Rồi khách xuất khẩu ngâm:
Xưa nay trà là đạo.
Khát cứ việc uống thôi.
Nghĩ thêm trà với đạo.
Đầu thượng trước đầu rồi!