Những lời chúc bình an mà chúng ta đón nhận hằng ngày có được trở nên sự thật hay không là do chúng ta cảm về nó như thế nào. Nhận một lời chúc bình an với thái độ dửng dưng, chúng ta sẽ chẳng ý thức được thế nào là bình an mà tâm hồn mình cần phải có. Đón nhận lời chúc ấy với tấm lòng chân thành, chúng ta sẽ được ủi an thật sự trước mọi biến cố.
Bình An? Nó là cái gì?
Wiktionary định nghĩa là sự yên bình, không có chiến tranh, không có xung đột.
Bình: có 23 chữ Hán: 平, 萍, 蓱, 瓶, 甁, 缾, 屏, 屛, 偋, 幈, 坪, 帲, 帡, 枰, 評, (评), 輧, 伻, 枰, 洴, 軿, 鮃, 鲆, 枅. Trong trường hợp này là chữ 平, nghĩa là: (tt.) I. Bằng (bằng phẳng, bằng nhau, ngang đều, ngang sức, phẳng, sòng phẳng): (1) Bằng phẳng: bình diện, bình địa, bất bình, thuỷ bình (nước phẳng); (2) Bằng nhau: bình đẳng; (3) Ngang đều: bình hành, công bình, quân bình; (4) Ngang sức: bình thủ (đối thủ ngang sức); (5) Phẳng, phẳng phiu, phẳng lỳ: địa diện ngận bình (mặt đất rất phẳng); tượng thuỷ nhất dạng bình (phẳng như mặt nước); (6) Sòng phẳng: bình phân. II. Đều, thường, vừa phải, ít thay đổi: (7) Đều bằng nhau, ngang nhau, hoà nhau, công bằng: trì bình chi luận (lập luận công bằng); nhất oản thuỷ đoan bình (ngang nhau bát nước đầy); song phương đã thành nhất bình (雙方打成一平: hai bên hoà nhau 1-1, hai đội hoà 1 đều); (8) Thường: bình thường, bình dân, bình dị, bình nhật (ngày thường), bình sinh (lúc sống trên đời, cả đời, từ trước đến nay); (9) Vừa phải: trung bình; (10) Ít thay đổi: bình bình (thường thường, không có gì đáng chú ý). III. Yên ổn, yên lặng vô sự: (11) Yên ổn, không có chiến tranh, trái với chiến: thời bình, hoà bình, thái bình, thanh bình; (12) Yên lặng, vô sự: bình an, bình lặng, bình ổn, bình tâm. (đt.) IV. Dẹp (loạn), đè ép (cho yên), nén, san (làm cho bằng), giảng hoà: (13) Dẹp yên, dẹp loạn: bình định, bình trị. bình thiên hạ, trị bình; (14) Đè ép: oán khí nan bình (oán giận không đè ép được); (15) Nén, nén xuống, đè xuống: bình nộ (nén giận); (16) San, san bằng, san phẳng: bình chỉnh thổ địa (san đất); bình thủ hảo khiêu (san đều dễ gánh); (17) Giảng hoà: Tống nhân cập Sở nhân bình (Người Tống và người Sở giảng hoà). (dt.) V. Tên gọi: (18) Tên gọi khác của Bắc Kinh: Bắc Bình; (19) Họ Bình; (20) Thanh bình (bằng), trái với trắc: Luật bằng trắc (平仄律); (21) Một trong tứ thinh: Bình, thượng, khứ, nhập (平上去入); (22) Thứ hạng bình (khá: trên thứ, dưới ưu trong hệ thống điểm ngày trước); (23) Cái mẫu nặng nhẹ trong phép cân. Tục dùng như chữ xứng (秤: cái cân): Thiên bình (cân tiểu ly); (24) Bình minh (hừng đông).
An: Có 9 chữ Hán: 安, 鞍, 鞌, 殷, 媕, 氨, 銨, 铵, 桉. Trong trường hợp này là chữ安, nghĩa là: (tt.) I. Yên, yên ổn, định: (1) Yên: bất an, bình an, bảo an; (2) Yên ổn: An ninh; (3) Ðịnh, không miễn cưỡng gì: An cư lạc nghiệp (ở yên vui với việc làm). (đt.) II. Làm cho yên, để cho yên, gán cho, đặt cho, (4) Làm cho yên: an thai, an thần, an vị, an phủ (phủ dụ cho yên); (5) Ðể yên: an trí (để yên một chỗ); (6) Gán cho: an tội danh. (7) Đặt tên: An danh. dt. III. Tên gọi; (8) Tên nước ta đời xưa: An-nam; (9) Địa danh: An Giang; (10) Họ An; (11) Do phiên âm: Máy đo đơn vị cường độ dòng điện: An kế (Ampere meter); (pht.) IV. Trợ từ: (12) Nghĩa là “sao vậy”: Nhi kim an tại (mà nay còn đâu )?
Bình an có thể hiểu theo hai phương diện, bên ngoài không có gì xảy ra, bên trong tâm hồn được bình thản, không lo lắng. Nên bình an là: (1) Không có sự cố, không có nguy hiểm (safe and sound; without mishap; well): bình an vô sự. (2) Yên bình: Đông Hải hà nhật bình an (Biển Đông ngày nào được yên ổn). (3) Tâm tình an tịnh (quiet and stable).
Theo nghĩa Công giáo: Bình an là tình trạng tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ. Bình an là một hồng ân của Chúa ban như là hoa quả của đức cậy và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Bức hoạ bình an
Chuyện kể rằng: Vị vua kia tìm kiếm một bức tranh minh hoạ sự bình an, có hai bức tranh được chọn vào chung kết. Một bức vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình an thật hoàn hảo. Còn bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Bầu trời bên trên đang giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác cuồn cuộn, nổi bọt trắng xoá. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào! Nhưng khi ngắm kỹ hơn, ta sẽ thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ, mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó - giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ - con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình... Bình an thật sự!
- “Ta chấm bức tranh này! - Nhà vua công bố - Sự bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình an có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình an”.
Một người ăn ở đúng thân phận mình, đi đúng con đường của mình, không cư ngụ sai trật nơi chốn, không gây hỗn loạn, người Việt gọi là “yên” (từ chữ Hán là “an”, nghĩa là ở vào đúng vị trí). Nhưng yên không phải là ở một chỗ, yên là hành động mà không trái với bản tính mình, không làm sai phẩm giá mình, không gây rối loạn và thương tổn đến kẻ khác. Nên chữ yên còn nối kết thêm chữ “lành”. Lành là tốt, là thiện, nhưng chỉ tốt khi ở trong sự thật, tức là yên. Do đó, người Việt hiểu từ “bình an” gần với từ “yên lành” (an hảo).
Tiếng Việt còn có hai chữ thuận-hoà. Nói đến “thuận hoà”, ta ý thức được ngay về sự hiện hữu của kẻ khác. Kẻ trước mặt buộc mình phải nhìn nhận và tôn trọng. Thuận hoà không phải đường ai nấy đi, nhưng cùng đi trong sự tôn trọng lẫn nhau, để mỗi người một vẻ tạo thành sự nhịp nhàng. Lấy thí dụ của bản nhạc: Một âm thanh không làm nên bản nhạc, nhưng ở trong cương vị của một nốt nhạc nằm đúng vị trí của mình, và phải phối hợp với các nốt khác trong toàn bản nhạc. Tương quan đó gọi là hoà. Nho học cũng lấy hình ảnh âm nhạc để nói đến sự hoàn thành đạo làm người: Thành ư nhạc [2]. Do đó, người Việt hiểu từ “hoà bình” gần với từ “thuận hoà”.
Nếu bình an, yên lành nói lên tình trạng, phẩm chất của một cá nhân, một bản tính; thì hoà bình, thuận hoà lại gợi lên những tương quan: thuận với Trời, hoà với người. Nói cách khác, khái niệm bình an hướng về là một trạng thái bên trong của chủ thể nhiều hơn, còn khái niệm hoà bình hướng về một hoàn cảnh, môi trường bên ngoài liên chủ thể mạnh hơn.
Thuật từ bình an không hoàn toàn đồng nghĩa với hoà bình. Có khi có chiến tranh, người ta không làm gì sai trái, tâm hồn vẫn cảm thấy bình an. Lúc không có chiến tranh, nhưng an ninh xã hội không được bảo đảm, người ta ngủ cũng không cảm thấy bình an.
Lời chúc “bình an” rất quen thuộc trên môi miệng chúng ta! Khi đi xa, chúng ta mong muốn được “thượng lộ bình an”. Khi gặp sóng gió, chúng ta ước gì có được “tâm hồn bình an”. Khi người thân sắp lìa cõi thế, chúng ta cầu nguyện cho họ được “ra đi bình an”. Khi đối diện với những đau thương, chúng ta luôn mong ước “thế giới bình an”. Sự bình an đã trở nên yếu tố quan trọng và cần thiết cho đời sống con người. Sự bình an đã làm cho con người thêm niềm hy vọng trước tất cả những điều con người trông chờ. Sự bình an không còn là câu nói chỉ mang tính cách xã giao, mà đó là điều ước xuất phát từ tấm lòng của con người.
Những lời chúc bình an mà chúng ta đón nhận hằng ngày có được trở nên sự thật hay không là do chúng ta cảm về nó như thế nào. Nhận một lời chúc bình an với thái độ dửng dưng, chúng ta sẽ chẳng ý thức được thế nào là bình an mà tâm hồn mình cần phải có. Đón nhận lời chúc ấy với tấm lòng chân thành, chúng ta sẽ được ủi an thật sự trước mọi biến cố.
Sự bình an ấy không làm cho chúng ta giải quyết được tất cả mọi khó khăn, vướng mắc; nhưng sự bình an ấy làm cho chúng ta đón nhận mọi sự trong cái nhìn đức tin, trong tấm lòng yêu mến và trong niềm hy vọng vững vàng. Sự bình an ấy giúp chúng ta đi đến những quyết định trong sự vâng phục với tất cả niềm vui. Sự bình an ấy biến đổi chúng ta trong mọi suy nghĩ, lời nói, hành động để chúng ta được trở nên khí cụ bình an cho tha nhân.
Giáng Sinh là dịp chúng ta trao nhau những lời chúc bình an. Ước chi lời chúc của mỗi chúng ta được trở nên hiện thực nơi những người mà chúng ta cầu chúc! Mong lắm thay sự bình an đích thực nơi chính tâm hồn chúng ta, để chúng ta đem sự bình an ấy đến cho mọi người!
Chân thành cảm ơn bạn! Tớ bình an thật sự bạ ơi...kakaaka còn bạn?
Trả lờiXóaCó bình an thật sự không?
Mình nghĩ là thật kakaka