- Sinh ngày 4/3/1925 tại Marseilles (Pháp).
- Thể loại Nhạc cổ điển, easy listening
- Nghề nghiệp Nhà soạn nhạc, Nhạc trưởng
- Nhạc cụ Piano
- Năm hoạt động 1950s—1998
- Có năng khiếu piano từ năm 4 tuổi. Hoạt động âm nhạc từ đệ nhị thế chiến, có cộng tác với nhiều giọng ca huyền thoại nhưng chỉ được thật sự biết đến từ khi lập ra dàn nhạc hòa tấu của riêng mình.
- Phát hành rất nhiều album, tính đến nay phát hành chính thức khoảng hơn 100 album.
- Ông trình diễn ở rất nhiều nơi. Ở Nhật người ta xem ông là 1 tượng đài âm nhạc.
- Là một phong cách riêng và ảnh hưởng đến khá nhiều nhạc sĩ đương đại.
- Giải thưởng: Ông được trao giải Grand Prix (giải thưởng lớn) từ ngành công nghiệp ghi âm Pháp. Năm 1997, ông giành giải Commandeur des Arts et des Lettres của Bộ Văn hóa Pháp. Ông đã bán được hơn 40 triệu album trên toàn thế giới và tổ chức 28 tour lưu diễn tại Nhật Bản 1969-1998.
- Nghỉ biểu diễn từ năm 1998 do sức khỏe không tốt.
- Mất (chính xác là hôm 04/11/2006), thọ 81 tuổi, tại Perpignan, Pháp
Trước ông, nhiều người đã có sáng tạo đột biến. Sau ông, những xu hướng mới đã tạo ra rất nhiều lối đi mới nhưng chưa bao giờ ông lạc thời bởi những thanh âm ông tạo ra là sự tụ ghép của những điều cũ mới. Những bản tình ca, những tinh hoa cổ điển được Paul chơi lại bằng thế giới của riêng ông và ai đã lạc vào đó sẽ khó lòng dứt ra được.
Lý lịch ông cũng chẳng có gì đáng nói hơn những nhạc sĩ tên tuổi khác ngoài thống kê cho thấy cuộc đời đi biểu diễn của ông dài gần 800.000 km, từ Âu sang Á, từ Tây về Đông, tức lớn hơn 2 lần khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng.
Nhạc của Paul hợp với khí hậu thời tiết mọi mùa và xa hơn, phù hợp với mọi loại cảm giác trong ngày và chưa bao giờ đẩy nó đi quá xa.
Ngày đông lạnh giá nghe Tombe La Neige, ngày hè rộn rã nhảy nhót trong tiếng El Bimbo trong những quán cafe mùa hè. Ngày thu đi câu cá trong tiếng giun dế ngắt quãng của Pearl Fishers, đêm về làm một cuộc hành trình tưởng tượng với Jours en France hay day dứt với tiếng nắn nót piano trong Last summer day...
Nhạc của Paul dễ nhớ, dễ yêu bởi nó len lỏi con tim bằng giai điệu. Paul không đi tìm những trúc trắc để người nghe suy ngẫm, ông chỉ bày lên bàn những món ngon của mình và mời người nghe thưởng thức. Cho đến giờ nghe lại, những giai điệu của ông vẫn đẹp, cao rộng dù rằng với những đôi tai chọn lọc, đây vẫn chưa phải là món sơn hào hải vị.
Cùng thời với Paul còn khá nhiều nhạc sĩ, chỉ huy dàn nhạc tên tuổi khác như Montovani, Frank Pourcel, Ray Conniff, nhưng Paul vẫn được nhớ nhiều nhất ở tầm mức phổ thông.
20 năm sau, những chương trình trực tiếp bóng đá trên truyền hình ở Việt Nam vẫn tiếp tục mở Alla figaro của Paul Mauriat khi chờ trận đấu bắt đầu. Hơn 30 năm sau, bản hòa tấu Those were the days của ông vẫn được yêu thích, thậm chí còn làm mờ đi cả giọng hát của Mary Hopkins. Gần 40 năm trôi qua, người ta vẫn nhớ L'Amour est bleu của Paul hơn là phần ghi âm nguyên thủy của Vicky Leandros...
Mauriat nghỉ biểu diễn năm 1998. Ông có buổi biểu diễn cuối cùng mang tên "Buổi hòa nhạc chia tay" (Sayonara concert) tại Osaka Nhật Bản, nhưng dàn nhạc của ông tiếp tục lưu diễn vòng quanh thế giới. Nhạc công piano cũ của ông là Giles Gambus tiếp tục chỉ huy dàn nhạc vào năm 2000 và có những chuyến lưu diễn thành công ở Nhật, Trung Quốc và Nga. Gambus đã làm việc cùng Mauriat trong hơn 25 năm. Vào năm 2005, nhạc sỹ cổ điển Pháp Jean-Jacques Justafré chỉ huy dàn nhạc trong chuyến lưu diễn tại Nhật Bản và Hàn Quốc.
Paul Mauriat mất tại Perpignan, thọ 81 tuổi. Sau khi Mauriat qua đời, dàn nhạc đại hòa tấu giải thể.
* Please Don't Spam Here. All the Comments are Reviewed by Admin.