Type Here to Get Search Results !

Thiền định | Khoa học và Y học nói gì?

Số báo cáo khoa học về tác động và ảnh hưởng của thiền định trên sức khỏe không ngừng gia tăng từ năm 1990, từ 50 mỗi năm lên đến 600 mỗi năm trong những năm 2010, và hơn 1000 hiện nay.

Thiền định thực hành hàng ngày đưa tới những biến đổi chức năng cũng như cấu trúc (Hötzel và cộng sự, Scan 2010), trong tổ chức nơ-ron não, đặc biệt tại hạnh nhân.

Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng tính mềm dẻo của thần kinh và sự tái tổ chức các xi nắp (khớp giữa các nơ ron) xảy ra một cách liên tục, đặc biệt dưới ảnh hưởng của thiền định. Theo Joseph Ledoux, chuyên gia sinh học thần kinh về cảm xúc, "Chúng ta là những xi nắp của chúng ta".

01 | Khoa học

Bộ não con người chắc hẳn là một vật thể phức tạp nhất của vũ trụ (100 tỷ nơ ron và hơn 10000 xi nắp cho mỗi nơ ron, liên kết các nơ ron với nhau thành những mạng lưới khổng lồ). Thế giới được não bộ tái tạo, trong rạp chiếu bóng bên trong chúng ta, nhờ các giác quan. Các giác quan đã dần dần xuất hiện trong sự tiến hóa theo Darwin để diễn giải môi trường của chúng ta, trong khung cảnh của một quá trình liên tục và thích hợp hóa (thấy, nghe, sờ chạm, nếm, ngửi).

Phật giáo thêm vào đó một "nguồn" giác quan khác: sự "kiến tạo tâm thức" vì sự tạo ra ý tưởng không có kích thích bên ngoài có thể làm rối loạn sự suy nghĩ của chúng ta. Não không phân biệt được sự thực và giấc mơ. Ví dụ, chúng ta có thể bừng tỉnh dậy toát mồ hôi, tim đập mạnh và hoảng hốt, sau một cơn ác mộng. Tất cả là vấn đề diễn giải, luồng thần kinh chạy tới một số vùng não, kích hoạt hay không một số trung tâm thần kinh. Các loài vật không "thấy" thế giới như chúng ta, vì các cơ quan giác quan của chúng khác với chúng ta (dơi, ruồi, v.v…).

Não tạo ra một sự "diễn giải của thực tại" và sự diễn giải này có thể bị rối loạn theo nhiều cách (ảo giác quen thuộc trên máy bay do ảnh hưởng của tăng tốc độ, nhà ảo thuật, v.v…). Như vậy ta thấy rõ tính chất chủ quan của "cái đang là". Người ta có thể tác động bằng cách thiền định trên chính mình, và chuyển hóa dần tâm thức, nếu thực sự muốn, qua nhiều giai đoạn sáng tạo tâm thức này, để làm giảm đi hay gia tăng một số cảm xúc hay cảm giác.

Có hai mạng lưới hoạt động thần kinh chính, tiếng Anh gọi là DMN và TPN.

Mạng lưới DMN (default mode network) hay "mạng chế độ mặc định", gồm một số vùng não chủ về ký ức và nhận thức về cái ta. Mạng DMN là chủ về quá trình tư duy bên trong, chẳng hạn như khi ta "nghĩ đến chuyện khác".

Hoạt động của mạng lưới này có thể được chứng minh khác xa với thụ động, bởi vì thật ra nó dùng rất nhiều năng lượng. Có thể nói rằng mạng DMN tranh chấp với các vùng não khác để sử dụng các nguyên liệu. Mỗi khi bạn làm điều gì cần đến sự chú tâm, não của bạn phải ức chế mạng DMN. "Mạng chế độ mặc định" này điều khiển sự thiếu chú ý, sự đãng trí, sự lang thang tư tưởng, sự mơ màng trong đó người ta nhai đi nhai lại dĩ vãng, và tưởng tượng về tương lai. Nó hoạt động trong khoảng một nửa thời gian thức tỉnh của chúng ta. Phần tích cực của nó là sự tưởng tượng, sự sáng tạo, sự quy hoạch, sự ôn lại quá khứ để cải thiện tương lai. Ngược lại, khi hoạt động của nó trở thành thái quá hoặc bị rối loạn, phần tiêu cực của nó mạnh hơn, với sự xuất hiện của đủ loại cảm xúc tiêu cực, như sự lo lắng, sự trầm cảm, sự ám ảnh. (bài của BS Trịnh Đình Hỷ, 2015).

Mạng DMN hoạt động ngược lại với một mạng lưới khác, "mạng tác vụ tích cực" TPN (Task-positive network). Hai mạng lưới này đối kháng hay loại trừ lẫn nhau.

Mạng TPN được kích hoạt trong thiền định chánh niệm (hay "tỉnh thức"). Chính nó điều khiển sự chú tâm vào hiện tại, sự tri giác về cơ thể hay sự quan sát tâm thức. Sự kích hoạt của nó sẽ làm ngưng kích hoạt Mạng DMN, và qua đó làm ngưng lại sự nhai lại, sự tiếc nuối quá khứ, sự phỏng đoán tương lai, là nguồn gốc của stress, của lo lắng, thậm chí của sự trầm cảm. Điều này được chứng minh rõ ràng khi so sánh sự hoạt động của hai mạng lưới ở nhóm người hành thiền và nhóm người kiểm tra (BS Trịnh Đình Hỷ, 2015).

Hoạt động của não bộ cực kỳ phức tạp, cho nên rất khó hiểu, và những thử nghiệm từ nhiều năm nay, của "Dự án Não bộ Con người" nhằm tái tạo hoạt động của não bộ con người trên máy vi tính, đến nay vẫn chưa mang lại giải đáp.

Các làn sóng gamma trên điện não đồ (tần số khoảng 40 Hz), biểu hiện một sự hoạt động mạnh mẽ của não, là những thay đổi có thể nhận thấy khi hoạt động thiền định đạt mức độ cao và đều đặn, thựchành mỗi ngày và lâu năm. Chúng thể hiện một sự đồng bộ hóa rất quan trọng của các trung tâm não (thí nghiệm của Matthieu Ricard).

Ngoài ra, một số nghiên cứu gần đây (Jacobs và cộng sự, 2011, giải Nobel) đã đo đoan lạp môi (télomérase) trong máu (là một enzyme kiểm soát chiều dài của đoan lạp, télomère - thành phần của nhiễm sắc thể liên quan tới sự lão hóa tế bào -) ở những người hành thiền có nhiều kinh nghiệm và những người mới tập thiền. Kết quả cho thấy một sự gia tăng đáng kể mức độ đoan lạp môi ở những người hành thiền (gợi lên khả năng chống sự lão hóa tế bào của thiền định).

Một số nghiên cứu khác (Antoine Lutz, 2008) chứng minh một tác động tổng quát trên hội chứng viêm, do một phản ứng tốt hơn gây nên bởi thiền định, rất có thể qua sự giảm tiết cortisol trong khi hành thiền. Cũng như vậy, một số nghiên cứu cho thấy thiền định có thể ảnh hưởng lên di truyền. (Herbert Benson ở Boston, gien liên quan đến sự bài tiết insuline và với cơ chế viêm).

Sự sắp xếp lại cấu trúc của các xi nắp ở người lớn được quan sát bởi IRM (cộng hưởng từ) hoặc PET-scan (cắt lớp phát xạ), trong nhiều sinh hoạt thể thao hay trong lãnh vực chuyên môn khác (như làm trò xiếc hay nhạc sĩ). Gần đây người ta đã cho thấy rõ trên IRM chức năng, một sự thay đổi tương tự với sự gia tăng xi nắp trong một số cấu trúc não (hồi đảo, insula), trong một buổi thiền quán sâu về từ bi (Antoine Lutz, Matthieu Ricard tại NCAM, Boston). Một số nghiên cứu (Sagi và cộng sự) còn gợi ý rằng chỉ cần một vài giờ thiền định cũng đủ để nhận thấy một sự thay đổi trong cấu trúc của chất xám. Não vẫn là một bộ phận đầy bí ẩn, luôn chuyển động, và tiến hóa không ngừng mỗi khi được kích hoạt.

02 | Y học

Việc khai trương một Chứng chỉ đại học về thiền chánh niệm, vào tháng hai 2013 tại Strasbourg bởi BS Bloch, chứng tỏ sự quan tâm mỗi ngày một gia tăng của y giới đối với môn học này, cũng như lợi ích của nó trong việc điều trị (nhiều bệnh như nghiện ngập, trầm cảm, stress, chán ăn, đau mạn tính…, đã được điều trị theo phương pháp thay thế này).

Một nghiên cứu ngẫu nhiên do BS Segal tại Toronto thực hiện năm 2010 đã chứng tỏ sự lợi ích của 8 tuần thiền định, so với việc dùng một giả dược (placebo) hay tiếp tục dùng thuốc chống trầm cảm để tránh tái phát. Thuốc chống trầm cảm và thiền định đều có hiệu quả trên sự tái phát trầm cảm, trong khi giả dược kém hơn một cách rõ rệt, với ý nghĩa thống kê.

Các nhà nghiên cứu của Đại học McGill ở Montréal đã chứng minh rằng các thuốc opioïde (loại thuốc phiện) can thiệp trực tiếp vào thú vui âm nhạc của các nhạc sĩ, theo một nghiên cứu công bố trong "báo cáo khoa học."

Ê kíp của GS Levitin đã ngăn chặn một cách chọn lọc và tạm thời các opioïde trong não bằng thuốc naltrexone, một loại thuốc dùng để cai nghiện. Sau đó họ đo cảm ứng với âm nhạc ở những người tham gia nghiên cứu. Khi nghe các bài nhạc họ thường ưa thích nhất, dù là thể loại âm nhạc nào, họ cũng không còn một cảm giác thích thú nào nữa. Như vậy các loại opioïde nội sinh (endorphine) là chính yếu để cảm thấy những cảm xúc tích cực và tiêu cực với âm nhạc, chúng đi theo các con đường ban thưởng về thức ăn, nghiện thuốc và tính dục. Ở đây cũng vậy, người ta nhận thấy một hiện tượng tương tự nơi những hành giả kỳ cựu, và thiền định có thể đóng góp bằng cách hoạt hóa hay ức chế sự bài tiết endorphine (kiểm soát các cơn đau mạn tính, chẳng hạn).

Như đã nói, tác động điều trị không xâm lấn của thiền định có thể có hiệu quả trong đa số trường hợp trầm cảm, stress, đau mạn tính và lo âu, mà không gây ra tác dụng phụ có hại.

Điểm chính yếu để hiểu khía cạnh y học của thiền định là "phản ứng chiến đấu – chạy trốn" đã được tuyển lựa bởi luật tiến hóa để bảo đảm sự sống còn của các cá nhân với những hậu quả sinh lý của nó. Đó là một vòng phản xạ phản ứng theo bản năng, qua sự bài tiết hormones và các hóa chất trung gian, trước một đe dọa mà không có sự trí thức can thiệp nào, để sửa soạn cho cơ thể phản ứng thật nhanh. Có thể điều đó đã rất hữu ích đối với tổ tiên chúng ta để tránh các thú vật săn mồi, nhưng đó lại trở thành rất có hại nếu hệ thống này bị kích hoạt một cách kinh niên. Trong xã hội hiện đại chúng ta đang sống, mỗi cá nhân phải chịu áp lực thường xuyên, cho nên người ta bị trở thành căng thẳng (stress).

Các hậu quả sinh lý (bài tiết quá nhiều các catécholamine thượng thận, gia tăng cortisol trong máu, gia tăng glucose, v.v.), các phản ứng loại "chiến đấu/ chạy trốn" trong stress mạn tính, sinh ra nhiều hậu quả y học như tăng huyết áp, tăng tiết acide và loét dạ dày, lo âu và trầm cảm, rối loạn tiêu hóa dạng co thắt ruột, rối loạn giấc ngủ, stress và suy giảm miễn dịch (do tăng tiết cortisol).

Hệ thống thần kinh – nội tiết (giao cảm và đối giao cảm) là tác nhân chính của những biểu hiện sinh lý đó.

Hệ thống giao cảm tác động lên sự bài tiết quen thuộc adrénaline hoặc épinéphrine, và đưa tới hiệu ứng sảng khoái trong những cảm xúc mạnh. Sự bài tiết này gia tăng lưu lượng tim bằng cách tăng sức mạnh cơ tim, tăng huyết áp bằng cách gia tăng sức cản động mạch và làm tim đập nhanh hơn. Nó cũng tác động trực tiếp lên não bằng cách làm giảm cảm giác đau đớn, và đưa tới "một trạng thái thứ hai" sung mãn, làm tăng trội lên trong một lát các khả năng về vật lý và tâm lý. Nó còn có các hiệu ứng khác, đặc biệt về tiêu hóa, với sự giảm vận động ruột và tăng tiết acide dạ dày. Hệ thống đối giao cảm có tác động ngược hẳn lại, và chính sự quân bình giữa hai tác nhân lớn này làm cho con người sống khỏe mạnh. Thực hành thiền định đều đặn cho phép làm giảm tầm quan trọng của sự hoạt hóa kinh niên của vòng phản xạ này, và có khi còn hủy bỏ được nó nơi những người hành thiền có nhiều kinh nghiệm.

03 | Kết luận:

Thiền định không chỉ là một tập hợp các kỹ thuật giúp phân tích, điều hòa và thay đổi tâm thức, nó cũng liên kết với một nền đạo đức với những nguyên tắc, và là một lối sống, một phần không tách rời của cuộc sống. Người ta luôn luôn thực hành thiền ít nhiều thời gian trong ngày.

Thiền định làm giảm đi tác động sinh lý của các sự kiện trong đời sống hàng ngày, và làm cho chúng ta có một cái nhìn tích cực hơn về sự vật. Cuối cùng, thiền định cho phép chúng ta sống trong sự thanh thản và trung hòa cảm xúc.

Trí tuệ, từ bi, không phản ứng khó chịu là những bằng chứng của một cuộc sống an bình hơn, hạnh phúc hơn, ít gặp phải những rủi ro của vô thường, là đặc tính của cuộc đời. Thực hành này có thể cho phép chúng ta trở thành một con người tốt hơn và tìm thấy hạnh phúc bằng cách tránh khổ đau.

NguồnBS Dominique Prapotnich, Hội Thảo về Thiền Định và Thiền Tông tại Trúc Lâm Thiền Viện, ngày 4/6/2017

Đăng nhận xét

0 Nhận xét
Spam, Comment bao gồm link quảng cáo và thiếu văn hóa sẽ bị xóa bởi người kiểm duyệt.
* Please Don't Spam Here. All the Comments are Reviewed by Admin.